“Hoàng tử” Bảo Ân. (Hình: Huy Phương/Người Việt)
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít
người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi
này. Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh,
người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có
hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua
đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ
tỵ nạn, Westminster.
Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản
triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai
của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu,
Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng.
Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà
vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con
trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng
không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo
Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm
1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý
Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai
song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm
2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu
hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường
Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban
trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời
kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà
Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng
đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu.
Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là
em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu
có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở
Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán
nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia
đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở
nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người
thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi
thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của
quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản
riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân”
Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình
tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An
Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra
một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo
Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence)
do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật
Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng,
nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới
tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang
Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý
do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra
đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.
Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ,
ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh,
Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và
qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy
chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân
mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời
vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ
cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh
sang Mỹ.
Cựu Hoàng Bảo Ðại
có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo
Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương
Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp.
Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không
hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan.
Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh.
Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp).
Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không
hôn thú.
8. Monique Marie
Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương
Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn
Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn
Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn
Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn
Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng
(9-12-1943).
(Bốn người con còn
lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng
Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc
Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo
Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo
Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu
Lan:
1. Nguyễn Phúc
Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi
Ánh:
1. Nguyễn Phúc
Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo
Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc
Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc
sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày 30 Tháng Tư,
nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để
ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’
trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh
và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh
sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu
của gia đình)
Tôi không biết Thiếu
tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức
Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm
1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và
sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng
TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh
lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn
Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy tờ nhà đất
chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà
này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì
có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại
như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me
chúng tôi ở nhờ.
Vào một buổi sáng
thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà
tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của
tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị
giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này,
chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong
tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần
áo để mặc.
Sống ở nhà Me tôi
cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và
buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng
nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn
nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp.
Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến
Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho
công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở
mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên
cạnh trốn cho mau.
Me tôi rất lo lắng
sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt
đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc
đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi,
bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi đi vượt biên tổng
cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết
tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy
nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết tiền, bà và chị
Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị
Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn
với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán
luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp
trung học và một chiếc khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ
Trời
Vợ chồng tôi bắt đầu
ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy
hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có
những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,”
họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô
và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong
nhà.
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời.
(Hình: Tư liệu của gia đình)
Thấy coi bộ bán Chợ
Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này
có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi
cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển
qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ
Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.
Tôi đứng ở ngoài
giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho
tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền
không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố,
vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu
nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.
Số là khi đi lấy
nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao
su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin
mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách
hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi
ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi)
dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại
Quang Minh, Chợ lớn.
Sau một thời gian
quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt
hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy
mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh
tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ
có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn
nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải
nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi thì lo cho vợ
tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu
tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ
Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống
bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta,
công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác
làm ăn.
Trong một dịp tình
cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế
binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi
quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia
tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái
Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với
Quân.
Sáng chúng tôi đứng
ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi
chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh
để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà
thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại
xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ
trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi có một kỷ niệm
không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha
ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ,
tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường
cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó
công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để
buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ
Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống
của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm
ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn
một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ
“đem con bỏ chợ!”
Quân theo gia đình
đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden
Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật
nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi
ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân
đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài
Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu
hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp
thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp
Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã
có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình
thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt
khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không
thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo
Ðại (Paris 2004)
Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ
thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ
điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời
năm 1984.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi
định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo
lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng
như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông
làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản
xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại,
Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một
công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên
đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu
tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng
chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng
Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại
hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể
của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà
không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo
Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với
bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi
đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người
cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi
mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm
“đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của
anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này
sao?
Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật
là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi,
không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được
xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới
như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu
(1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi
Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)…
Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực
để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất
kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở
Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên
cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có
quyền xây mộ cho ngài.
Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và
các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh
thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được,
phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique,
thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ
nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy
tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ
Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một
tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc
xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch
vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến
có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích
và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông
Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu
hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo
Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh
của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu
bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất.
Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và
giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu
Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000
Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân
ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được
400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất
là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học
không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng
góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ
đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được.
Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ
cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm
ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có
đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp
ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của
cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn
thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây
mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để
tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo
Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà
Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo
Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự,
trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không
rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền
bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định,
hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể
thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính
bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà
Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”
khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của
nó.
Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông
sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2
Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn
Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất
thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông
Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự
lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện
của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại
Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố,
các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại,
ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho
biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ
chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.
Những đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và
nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi
người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự:
“Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ
con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ
chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi
Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh
khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.
Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi
quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh
cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ
chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến
trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ,
từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người
mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc
để tồn tại!’”
Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với
Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu
Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho
ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi
tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện
này, cũng đã rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học,
cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế,
bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu
Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ
sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở
tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là
Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức
là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình
Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955,
nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc
Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều
bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi
Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc
tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ
trương, chính sách của cấp trên?
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã
lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba
1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định
số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những
tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh
số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
Vĩnh Thụy tức Bảo
Ðại.
Marie Jean Nguyễn
Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
Bùi Thị Mông Ðiệp
hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
Lê Thị Phi Ánh hay
Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
Hoàng Thị Lang
(hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
Vĩnh Cẩn (anh em
chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ)
và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
Nguyễn Ðệ (đổng lý
văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa,
lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng
cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần
trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất
phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản
của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài
sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm
trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó
ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà
qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm
1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng
theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần.
Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra
khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được. Cựu
hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên văn), không
biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu
hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp
đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi
đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu
thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo
Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông giận bà suốt
hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh
sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về,
rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm,
hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời
năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm
ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm 1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp
hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội
nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống
thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm,
ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực,
nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến
khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp
Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công chúa Phương
Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng
con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo
thêm sứt mẻ trong gia đình.
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique
Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu
hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để
sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời
gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc
dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập
đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô
Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền
thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh
chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở
về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam.
Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ
Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên
Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà
cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến
để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà
Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng
nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến
chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa và gần
như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm
1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang
thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con
đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân
Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một
cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre
de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại
nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của thân thích
gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của
Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc bài viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa
con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông,
được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh
thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất
hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng:
“Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội
tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt
thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của
chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh,
cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của
một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm
ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin
cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Nói về cuộc đời của
Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần
ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ
xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt
chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui
lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một
tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng
đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng
trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)
Nguồn : Người Việt – Hình : Gactholoc.net
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét