Qua một số tập hồi ký và tài liệu loại khác có được trong
tay, tác giả cố gắng trình bày tương đối đầy đủ và khách quan hơn so với quan
điểm “chính thống” về nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim cùng Nội các của ông, từ
đó có thể suy nghiệm được những bài học lịch sử hữu ích áp dụng cho hiện tại và
tương lai.
Thuộc thế hệ tuổi trên dưới 60 như chúng tôi, ở miền Nam, hễ
có quan tâm ít nhiều tới chuyện sách vở thì hầu như không ai không biết đến
nhân vật Trần Trọng Kim (1883-1953), một học giả tên tuổi, có thời gian ngắn
tham gia chính trị với tư cách Thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945), và là người
tiên phong cho một số công trình biên khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh
vực học thuật khác nhau, như Việt Nam sử lược, Nho giáo, Truyện Thúy Kiều…
Khởi đầu sự nghiệp trứ tác từ năm 1914 khi phụ trách mục “Học
khoa” trên Đông Dương Tạp Chí,với loạt bài viết có tính giáo khoa về luân lý và
về khoa sư phạm học, nếu tính đúng và đủ, Trần Trọng Kim là tác giả của tất cả
những công trình đã in thành sách, liệt kê theo thứ tự thời gian như sau: Sơ học
luân lý (Nhà in Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1914), Sư phạm khoa yếu lược (Trung
Bắc Tân Văn, 1916), Việt Nam sử lược (2 quyển Thượng và Hạ, Trung Bắc Tân Văn,
1919), Truyện Thúy Kiều chú giải (1925, soạn chung với Bùi Kỷ), Quốc văn giáo
khoa thư (3 tập: lớp Đồng ấu, lớp Dự bị, và lớp Sơ đẳng), Luân lý giáo khoa
thư, Sử ký giáo khoa thư (cả ba loại giáo khoa thư này xuất bản năm 1926, và đều
soạn chung với Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, do Nam Sơn Nguyễn Văn
Thọ vẽ minh họa), 47 điều giáo hóa của nhà Lê (Trung Bắc Tân Văn, 1928, dịch
“Lê triều giáo hóa điều luật tứ thập thất điều” ra tiếng Pháp: Les 47 articles
du Catéchisme moral de l’Annam d’autrefois), Nho giáo (Trung Bắc Tân Văn, 1930,
ba quyển; sau in gộp lại thành hai quyển, 1932-1033), Việt thi (sao lục và chú
giải), Phật lục (NXB Lê Thăng, Hà Nội, 1940), Phật giáo (Tân Việt xuất bản),
Vương Dương Minh (1940), Việt Nam văn phạm (Lê Thăng, Hà Nội, 1941, soạn chung
với Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ), Tiểu học Việt Nam văn phạm (Tân Việt xuất bản), Phật
giáo thủa xưa và Phật giáo ngày nay (Tân Việt, 1953; “Lời mở đầu” của tác giả đề
tháng 10.1952), Hạnh thục ca (Tân Việt xuất bản), Đường thi (Tân Việt xuất bản),
Lăng ca kinh (Tân Việt, 1964), Một cơn gió bụi (Hồi ký, viết từ năm 1949, xuất
bản năm 1969 tại Sài Gòn do NXB Vĩnh Sơn).
Ngoài những sách đã in chính thức trên đây, Trần Trọng Kim
còn có loạt bài biên khảo dài về Đạo giáo (Đạo Lão Tử) đăng nhiều kỳ trên Nam
Phong Tạp Chí (từ số 67 năm 1923), chưa xuất bản thành sách. Vũ trụ đại quan
và Thiên văn học là 2 công trình biên khảo
khác nữa nhưng dường như chỉ ở dạng bản thảo đã bị thất lạc trong thời kỳ chiến
tranh Việt-Pháp (1946-1954). Quyển đầu thấy tác giả có nhắc qua trong một bức
thư gởi Hoàng Xuân Hãn mới được công bố gần đây; còn quyển sau, chỉ được biết
qua sự ghi nhận của nhà văn-nhà báo Lãng Nhân Phùng Tất Đắc trong tập hồi ký Nhớ
nơi kỳ ngộ (do Ziên Hồng xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1997). Riêng cuốn Pháp bảo đàn
kinhnói là do ông dịch, chúng tôi chỉ thấy giới thiệu sau bìa lưng một quyển
sách khác do NXB Tân Việt in năm 1964, nên chưa thể xác định.
Nếu xét trên phương diện đề tài thì tác phẩm của Trần Trong
Kim bao quát một phạm vi rất rộng, từ giáo khoa nhiều môn học sang các lĩnh vực
Văn, Triết, Sử, Tôn, và đều có tính cách tiên phong đi đầu trên mỗi lĩnh vực học
thuật trong giai đoạn chuyển giao từ nền cựu học sang tân học, trong số đó
riêng Việt Nam sử lược từ khi ra đời đã được đánh giá là một trong những quyển
sử quy mô đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, vừa có phong cách ngắn
gọn, súc tích, vừa đầy đủ dễ hiểu, đọc rất hấp dẫn, và được tái bản cho đến nay
có đến chục lần.
Điều khá đặc biệt là những cuốn giáo khoa tiểu học nêu trên
do ông chủ trì biên soạn đều là những sách viết rất hay, mà một số bài trong đó
đến nay lớp người từng học tiểu học khoảng nửa trước thế kỷ XX vẫn còn thuộc nằm
lòng. Một số câu, đề bài đã trở thành nhưng câu khẩu ngữ rất quen thuộc: Ai bảo
chăn trâu là khổ… Xuân đi học coi người hớn hở... Cách biên soạn đơn giản, dễ
nhớ như thế của nhóm soạn giả Trần Trọng Kim rất có giá trị thuyết phục, mà
ngày nay có lẽ còn phải phấn đấu học hỏi nhiều nữa giới sư phạm mới có thể vượt
lên hơn được.
Trong Việt Nam văn học sử yếu, GS Dương Quảng Hàm xếp Trần
Trọng Kim vào chương “Các văn gia hiện đại” cuối sách, ở tiểu mục “Khuynh hướng
về học thuật”, chỉ với 3 dòng nhận xét rất ngắn gọn nhưng đủ khái quát hết sự
nghiệp học thuật của ông: “Trần Trọng Kim (hiệu Lệ Thần) là một nhà sư phạm đã
soạn nhiều sách giáo khoa có giá trị và một học giả đã có công khảo cứu về Nam
sử và các học thuyết cổ của Á Đông” (Bộ Giáo dục-Trung tâm học liệu, Sài Gòn,
1968, tr. 450).
Đến Nhà văn hiện đại (4 tập, Tân Dân, Hà Nội, 1942-1945),
nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan (1902-1987) xếp Trần Trọng Kim vào “Các nhà
văn lớp đầu”, nhóm biên khảo (cùng với Bùi Kỷ, Lê Dư, Phan Khôi, Nguyễn Quang
Oánh, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh), đã giới thiệu khá tỉ mỉ văn
nghiệp của ông (chiếm đến 30 trang giấy). Đặc biệt giới thiệu, phân tích, phê
bình một cách tập trung, chi tiết vào 3 quyển Việt Nam sử lược, Nho giáo
và Việt Nam văn phạm. RiêngViệt Nam sử
lược, Vũ Ngọc Phan cho rằng “tuy gọi là ‘lược’ nhưng cũng đủ được mọi việc
trong thời kỳ đã qua của nước nhà và đáng coi là một bộ sách giá trị” (NXB Văn
Học-Hội Nghiên Cứu Và Giảng Dạy Văn Học TP. HCM, 1994, tập I, tr. 181). Rồi đi
tới một kết luận chung cho toàn bộ sự nghiệp biên khảo của Trần Trọng Kim: “Đọc
tất cả các văn phẩm của Trần Trọng Kim, người ta thấy tuy không nhiều, nhưng
quyển nào cũng vững vàng chắc chắn, không bao giờ có sự cẩu thả.
“Ông có cái khuynh hướng rõ rệt về loại biên khảo; chỉ đọc
qua nhan đề các sách của ông, người ta cũng có thể thấy ngay: hết lịch sử, đến
đạo Nho, đến đạo Phật, rồi lại đến mẹo luật tiếng Việt Nam. Ông là một nhà giáo
dục, nên những sách của ông toàn là sách học cả.
“Văn ông là một thứ văn rất hay, tuy rất giản dị mà không
bao giờ xuống cái mực tầm thường; lời lời sáng suốt, giọng lại thiết tha như
người đang giảng dạy. Lối văn ấy là lối văn của một nhà văn có nhiệt tâm, có
lòng thành thật” (sđd, tr. 208-209).
Lại đến Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế
Ngũ, tập III, phần Văn học hiện đại 1862-1945 (Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn,
1965), nhà nghiên cứu văn học rất tài hoa uy tín này tiếp tục xếp Trần Trọng
Kim vào hàng ngũ các nhà biên khảo tiêu biểu của giai đoạn 1907-1932, chung với
Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941) (hai tác giả đã được Vũ
Ngọc Phan xếp vào nhóm Đông Dương Tạp Chí và nhóm Nam Phong Tạp Chí) và Phan
Khôi (1887-1959). Phạm Thế Ngũ gọi Trần Trọng Kim là nhà giáo dục mới, lần lượt
điểm qua các tác phẩm tiêu biểu, trước khi đi đến nhận định tổng quát có thể bổ
sung được cho sự đánh giá của hai nhà vừa nêu trên: “Ở Trần Trọng Kim ta thấy một
đặc điểm là mặc dù sớm theo Tây học, lại sang cả Pháp du học, song ông đã có với
văn hóa Đông phương một mối kính cẩn sâu xa. Có thể nói ông chủ trương bảo tồn,
thủ cựu hơn cả Phạm Quỳnh. Về đường trước tác thì có thể nói ông đã thực hiện
đúng cái đường lối… là đem tất cả cái gia tài văn hóa của ông cha mà bàn giao lại
cho thế hệ mới… Tuy có Tây học song ông tự đặt mình vào phái cũ, đem cái phương
pháp mới học được của Tây học mà làm những công trình bàn giao ấy cho được rõ
ràng hơn hoàn bị hơn. Sự phối hợp giữa một phương pháp biên khảo mới mẻ và một
kho kiến thức phong phú cộng thêm vào một thiện chí theo đuổi “cúc cung tận tụy”
đã khiến cho những công trình của ông có một giá trị vững bền và đặt ông vào
hàng đầu các nhà biên khảo ở giai đoạn này.
“Về hành văn thì ông có một lối văn đặc biệt bình dị… Không
ưa những hình ảnh cao kỳ, lối sắp đặt đối ngẫu, sự bay bổng hay hào hoa, chỉ muốn
dùng cách thông thường nhất dễ hiểu nhất, để dẫn giải ôn tồn cho người ta hiểu.
Văn bình đạm song có khí có lực, cũng như con người vậy” (tr. 301-302).
Trần Trọng Kim, còn có bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý
Mùi) tại làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan Hải),
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Theo Vũ Ngọc Khánh, họ Trần của Trần Trọng Kim là một họ lớn
ở Đan Phổ (lúc đầu gọi Đan Phố, sau theo cách phát âm mới đọc Phổ), cụ thân
sinh ra Trần Trọng Kim là Trần Bá Huân, có tham gia phong trào Cần Vương. Em
gái ông tên Trần Thị Liên là một cán bộ Xô Viết, hoạt động năm 1930 (mất năm
1964). Ngoài ra, ông còn có người con gái hiện đang ở Pháp (xem “Bàn thêm về Trần
Trọng Kim”, Tạp chí Văn Hóa Nghệ An, 26.11. 2009). Riêng vợ ông là em gái nhà
nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.
Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ.
Năm 1897, học chương trình Pháp ở Trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, thi đỗ
vào Trường thông ngôn, tốt nghiệp năm 1903. Năm 1904, làm Thông sự ở Ninh Bình.
Ít ai biết rõ thuở hàn vi của Trần Trọng Kim ra sao, vì ngay
trong tập hồi ký viết cuối đời, cuốn Một cơn gió bụi (tên phụ “Kiến văn lục”,
NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969), cũng không thấy kể. Chỉ biết ông nhà nghèo, nên
năm 1906 mới nhờ bạn học cũ là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) giúp, khi ông Vĩnh
được nhà nước bảo hộ Pháp giao trách nhiệm tổ chức đi dự cuộc Hội chợ Marseille
ở Pháp (hồi đó gọi là “đấu xảo”), sắp xếp cho ông đi theo với tư cách thợ khảm,
mà thật ra mục đích chính chỉ để tranh thủ ở lại Pháp học thêm: “Thì mục đích
mình là kiếm đường du học, chứ tôi có biết khảm khiếc gì đâu!” (Lãng Nhân,
sđd., tr. 84).
Từ đó ông trải qua học trường Thương mại ở Lyon, rồi được học
bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, vào học trường Sư phạm Melun, tốt
nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước, do học bổng của mọi sinh viên lúc
đó đột nhiên bị bãi. Sau đó, lần lượt dạy ở Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi),
Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.
Ông là nhà giáo mẫu mực, có uy tín trong xã hội, từng giữ
nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra các trường tiểu
học Pháp-Việt (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách giáo khoa Tiểu học (1924), giáo
viên Trường Sư phạm thực hành (1931), Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội
(1933). Ngoài ra ông còn là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức
và Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Bắt đầu về hưu năm 1942 khi vừa tròn 60 tuổi.
Theo sự kể lại của Lãng Nhân, một người được Trần Trọng Kim
coi là bạn trẻ khá thân thiết, thì ông người vóc đậm nên trông hơi thấp, nước
da ngăm ngăm, đi đứng khoan thai vững vàng, tuy gốc Nghệ Tĩnh nhưng ở Bắc lâu
nên giọng nói nhẹ nhàng. Thấy ông là nhà giáo đạo mạo, lại chuyên viết những
công trình nghiêm túc gần như giảng đạo, ít ai nghĩ Trần Trọng Kim là người có
óc trào lộng, thích kể chuyện tiếu lâm, và cũng theo Lãng Nhân cho biết, cuốn
sách nhỏ do nhà Ích Ký phố Hàng Giấy xuất bản năm 1910, có những chuyện “xứ Nghệ”
xem vỡ bụng cười, đều do ông Trần kể lại với tác giả Thọ An, tức Phạm Duy Tốn
(1883-1924), một nhân vật trọng yếu của nhóm Nam Phong.
Tính ông vui vẻ, cởi mở, xuềnh xoàng dễ gần và không quan
cách, kể cả khi sau này ở địa vị đứng đầu chính phủ, như có lần chào tạm biệt một
nhà báo khi nhà báo này vừa làm xong cuộc phỏng vấn: “Ta cũng là anh em, trước
ông biết tôi là Kim nay cứ gọi Kim, xin đừng xưng hô kiểu cách” (xem Nguyễn Duy
Phương, Lịch sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam, Hà Nội, 1945, tr. 33).
Có những chi tiết rất lý thú về nền nếp sinh hoạt hằng ngày
của ông. Cũng theo Lãng Nhân, “Sở dĩ ông thực hiện được những tác phẩm có giá
trị cả về phẩm lẫn lượng, là nhờ sự kê cứu tỉ mỉ công phu cùng đức tính cần cù,
nhẫn nại và cương quyết ít thấy ở ai khác. Thật vậy, nhà ông, trên lầu, riêng một
căn làm thư phòng, giữa kê một bàn giấy lớn, sách vở bày trên từng chồng xếp đặt
ngay ngắn, bên đèn bên quạt điện, trước bàn là một ghế bành gỗ gụ không có nệm.
Điều khác thường là bao nhiêu đó được vây kín trong một khung hình lớn lúc nào
cũng buông xùm xụp để tránh muỗi. Mỗi ngày cơm chiều xong là ông tản bộ đi
chơi, đi thăm hỏi bạn bè, khi chuyện trò trong hội Khai Trí, nhưng nghiêm luật
bất di bất dịch là đúng 10 giờ đêm, dù mưa gió bão bùng, thế nào ông cũng có mặt
nơi ‘bàn mùng’ để căm cụi dùi mài cho đến 2 giờ sáng” (sđd., tr. 84-85).
Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ?
Chỉ một năm sau khi về hưu (1943), thời cuộc bắt đầu đưa đẩy
chuyển ông sang một hướng rẽ đầy phong ba bão táp mà bình sinh có lẽ ông chưa
bao giờ kịp nghĩ tới.
“Một cơn gió bụi” nổi lên bao trùm hoàn hải trong bối cảnh
cuộc Chiến tranh thế giới thứ II đến hồi quyết liệt đã làm cho cuộc đời nhà
giáo-nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim không còn được êm ả cách tương đối như trước.
Người Nhật, kéo vào Đông Dương từ những năm 40, với nhiều ý đồ có sẵn trong mối
quan hệ tranh quyền với Pháp, đã bắt đầu cho người ve vãn, tìm cách lui tới làm
quen, lấy cớ để hỏi han ông những kiến thức liên quan các vấn đề văn hóa, lịch
sử. Việc này Trần Trọng Kim đã thuật lại khá rõ trong tập hồi ký cuối đời, mà gần
đây đã được đưa lên mạng Internet nên rất dễ tìm đọc. Ngay từ chương đầu, thái
độ sống và lập trường chính trị của ông đã được bộc lộ khá rõ:
“Sau 31 năm
làm việc trong giáo giới…, đến năm 1942 mới được về hưu. Tưởng thế là được nghỉ
ngơi cho trọn tuổi già. Bởi vì trong một đời có nhiều nỗi uất ức sầu khổ về
tình thế nước nhà, về lòng hèn hạ đê mạt của người đời, thành ra không có gì là
vui thú. Một mình chỉ cặm cụi ở mấy quyển sách để tiêu khiển…
“Năm Quý Mùi
(1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ
Ðông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng.
Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy
nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng
muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu.
“Tôi là một người
nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của
những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán,
nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình,
vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về
phương diện chính trị…
“Trong khi nước
Pháp đang bị cái nạn chiến tranh, người Pháp đối với người Việt Nam không đổi
thái độ chút nào, mà người Nhật thì lại muốn lợi dụng lòng ái quốc của người Việt
Nam để quyến dụ người ta theo mình…
“Nước Nhật Bản trước
vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Ðông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng
những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ… Người Nhật tuy
dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc
bị hà hiếp”, nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình. Bởi vậy chính sách
của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đàng làm một nẻo. Cái chính sách ấy
là chính sách bá đạo rất thịnh hành ở thế giới ngày nay. Dùng lời nhân nghĩa để
nhử người ta vào tròng của mình mà thống trị cho dễ, chứ sự thực thì chỉ vì lợi
mà thôi, không có gì là danh nghĩa cả.
“Trong hoàn cảnh
khó khăn ấy tôi phải nén mình ngồi yên. Song mình muốn ngồi yên mà người ta
không để cho yên. Hết người này đến nói chuyện lập hội này, người khác đến nói
chuyện lập đảng nọ. Ðảng với hội gì mà tinh thần không có, sự tổ chức chẳng đâu
ra đâu thì càng nhiều đảng và hội bao nhiêu lại càng thêm rối việc bấy nhiêu,
chứ có ích gì? Bởi vậy đối với ai, tôi cũng lấy lòng ngay thẳng mà đáp lại,
nhưng không đồng ý với ai cả” (Một cơn gió bụi, NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969,
tr. 9-12).
Về lập trường chính trị như vừa nêu trên, nhất là đối với sự
can thiệp ngày càng thô bạo của Nhật ở Đông Dương, chúng ta còn được biết rõ
thêm qua vài đoạn nêu trong tập hồi ký của Bùi Diễm (sinh năm 1923, con trai
Bùi Kỷ), một người cháu gọi vợ ông bằng cô ruột (gọi ông bằng chú, nói theo miền
Nam là dượng rể): “Lúc này tôi thường xuyên trú ngụ ở nhà ông chú tôi (tức Trần
Trọng Kim-TVC), nơi ông cụ tôi (tức cụ Bùi Kỷ- TVC) và ông chú tôi đang hợp sức
viết sử. Tôi thường ăn cơm cùng cả ông cụ lẫn ông chú. Trong bữa cơm tối cả ba
chúng tôi thường bàn luận về hành động của Nhật. Theo ông cụ và ông chú tôi thì
người Nhật không hề thật tâm muốn giúp đỡ người Việt. Hành vi tàn ác của Nhật
đã được các báo chí Pháp đăng tải thật chi tiết. Hơn nữa mật vụ Kempeitai của
Nhật (tức hiến binh Nhật-TVC) đã khét tiếng là tàn ác. Người Nhật vốn có tinh
thần kỷ luật cao. Khi họ đã bước chân vào việc gì thì rất ít khi chịu làm việc
nửa vời. Ông cụ và ông chú tôi cho rằng hợp tác với Nhật lúc này hãy còn sớm
quá” (Gọng kềm lịch sử, Cơ sở Phạm Quang Khai, Paris, 2000).
Việc dàn cảnh bắt Trần Trọng Kim đưa đi giấu sẵn ở Chiêu Nam
Đảo (tức Singapour do Nhật chiếm đóng) để chuẩn bị cho một mưu đồ tương lai, lấy
cớ là để bảo vệ ông thoát khỏi sự rình rập bắt bớ của mật thám Pháp, cũng đã được
kể rõ trong chương tiếp theo của tập hồi ký Một cơn gió bụi, nhưng để tóm tắt
hơn và có phần khách quan hơn, xin trích dẫn thêm vài đoạn kể tiếp sau của Bùi
Diễm:
“Vào một buổi
sáng tự dưng có một sinh viên đứng tuổi người Nhật tên Yamaguchi đến nhà xin được
phép nói chuyện với ông chú tôi. Yamaguchi diễn tả rất lưu loát bằng tiếng Pháp
rằng ông đang nghiên cứu sử Việt Nam và đến tìm ông chú tôi để thỉnh cầu giúp đỡ.
Yamaguchi cho biết ông đang tìm hiểu về một giai đoạn đặc biệt trong triều đại
Nhà Nguyễn.
“Từ đó Yamaguchi
thường xuyên lui tới (…). Tuy chẳng làm cách nào rõ được ý đồ của Yamaguchi,
chúng tôi biết rõ là ông đến với ý định khác (…), chắc chắn chẳng liên quan gì
đến các triều đại Nhà Nguyễn. Trong khi đó Yamaguchi cũng xuất hiện tại nhiều
nơi khác….Ông liên lạc với các giáo sư, nói về tình huynh đệ giữa những người
Á, về việc giúp đỡ lẫn nhau dành lại chủ quyền. Ông cũng nhắc nhở, hô hào “Người
Á, đất Á” và cố đề cao vai trò của Nhật trong các phong trào giúp đỡ, giao hảo
với người Việt.
(…)
“Mặc dầu ông chú
tôi vẫn chăm chỉ viết sách, cuộc sống của ông thực sự đã thay đổi rất nhiều vào
năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị dồn dập đã đẩy ông phần nào ra khỏi tư
thế khách quan trong vấn đề tranh đấu cho độc lập. Lúc này ông khách sinh viên
Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả
mật thám Pháp cũng đã giám sát cẩn mật nơi cư ngụ và các hành động của ông chú
tôi.
“Tuy đã biết rành
rọt mọi chuyện mà vào một hôm đến chơi tôi vẫn bàng hoàng khi được bà mợ cho biết
tin chú tôi không còn ở nhà nữa. “Chú phải lên đường đi xa,” mợ tôi tiếp tục
cho thêm tin “vì mật vụ Pháp rình rập và đã lên đường đi Singapore cùng ông
Yamaguchi rồi” (Gọng kềm lịch sử, sđd.).
Chuyến đi đó, khởi đầu từ ngày 27.10. 1943 và chính thức xuống
tàu thủy ngày 1.1.1944, cùng với một người bạn nữa cũng cảnh ngộ bị “bắt cóc”
vào chung chỗ hiến binh Nhật như ông là cụ Dương Bá Trạc (1884-1944), nằm trong
dự mưu do người Nhật khéo tác động và dẫn dắt, đối với Trần Trọng Kim được coi
là một chuyến đi định mệnh, hướng cuộc đời ông vào một ngả rẽ hoàn toàn không
chủ động, nếu không muốn nói gần như trái hẳn với lập trường chính trị ban đầu
của ông. Tuy nhiên, có nhiều khả năng trong quá trình tiếp xúc sau này với các
đại diện Nhật Bản ở Chiêu Nam Đảo và những nơi khác, Trần Trọng Kim đã được người
Nhật tìm cách rỉ tai vận động để gieo cho ông mầm mống hi vọng về tương lai độc
lập-canh tân xứ sở dưới sự bảo trợ của họ, nhưng điều này thì Trần Trọng Kim vẫn
kín miệng không thấy kể ra trong hồi ký. Dù sao, mưu đồ của Nhật cũng đã quá
rõ, không mấy cần phải có thêm tài liệu để chứng minh.
Sau khoảng một năm trải qua cuộc sống chờ đợi buồn tẻ ở
Chiêu Nam Đảo, Dương Bá Trạc đã mất tại đây vào ngày 11 tháng 12 năm 1944 (nhằm
26 tháng 10 năm Giáp Thân) vì bệnh ung thư phổi, thi hài được Nhật tổ chức hỏa
táng đem về nước. Lúc này chỉ còn một mình Trần Trọng Kim ở lại với vài người
khác do Nhật đã đưa qua sẵn trước đó, để đến ngày 16.1.1945 thì được bố trí đi
Băng Cốc (Thái Lan) cùng với Đặng Văn Ký, một thành viên chủ chốt của đảng Phục
Quốc thân Nhật.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, vào lúc 21 giờ, sau khi bị Toàn quyền
Pháp Decoux tìm cách trì hoãn yêu sách do đại sứ Nhật tại Đông Dương Shunichi
Matsumoto đưa ra trong một tối hậu thư đã trao chỉ trước đó 2 giờ, đòi Pháp phải
đặt toàn bộ quân đội và bộ máy cai trị thuộc địa dưới quyền điều khiển của
mình, Tổng tư lịnh Nhật Yuichi Tsuchihashi đã ra lệnh mở màn cuộc đảo chánh lật
đổ chế độ thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Bị tấn công bất ngờ vì chưa hề
hay biết trước, quân pháp thất thế trên khắp cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc và chỉ chống
trả một cách yếu ớt rồi đầu hàng ngay trong ngày hôm sau. Toàn thể quan chức đầu
não của Pháp đều bị bắt giam, kể cả Toàn quyền Decoux, một số khác cùng quân
lính phải bỏ chạy thoát thân sang Lào hoặc Trung Quốc.
Việc đảo chánh, Nhật đã chuẩn bị kỹ sẵn trước, nên chỉ từ 9
giờ tối hôm trước đến 8 giờ sáng hôm sau, toàn cõi Việt Nam rơi vào tay Nhật, cả
thực dân Pháp và thường dân, công chức đều bất ngờ. Tình cảnh của họ lúc đó lao
đao, nhưng nhờ tính rộng lượng cố hữu của người dân Việt, nên cũng không đến đỗi
quá bi thảm: “… Các nhà chuyên môn Pháp được tiếp tục làm việc… Một vài kĩ sư Pháp
mon men tới sở, bị đánh… Sau tôi nghe nói một số người Pháp ở miền Tây trốn vào
bưng, không bị dân chúng đánh đập, giam giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ lương
thực, che chở cho họ nữa. Ở Nam này như vậy, mà có lẽ ở Bắc, Trung cũng không
khác mấy…. Có người bảo người Việt nào cũng có một ông Phật ở trong lòng, câu ấy
đúng” (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học, 1993, tr. 233-234).
Ngày 10.3.1945, lúc 11 giờ, Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki
Yokoyama vào gặp vua Bảo Đại giải thích tình hình, tuyên bố “trao trả độc lập
cho Việt Nam để cùng nhau xây dựng khối Đại Đông Á thịnh vượng”, đề nghị vua ra
tuyên bố độc lập và chuẩn bị thành lập chính phủ mới trên cơ sở hợp tác dưới sự bảo trợ của Nhật.
Ngay hôm sau, ngày 11. 3.1945, triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ
Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, nước Việt Nam được quyền thu hồi độc lập
(dưới bản tuyên bố ký tên vua Bảo Đại cùng toàn thể Cơ mật viện, đứng đầu là
Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh).
Tờ chiếu tuyên bố độc lập có đoạn viết: “Theo tình hình thế
giới nói chung và hiện tình Á châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng:
Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu
hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia độc lập!”
Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và một vài thành phố lớn, do sự sách
động của các nhóm thân Nhật, một số người xuống đường rầm rộ để tri ân quân đội
Nhật hoàng, nhưng quảng đại quần chúng thì đều tỏ vẻ thờ ơ lạnh nhạt với phong
trào “độc lập” do Kempeitai (Hiến binh) và quân đội Nhật dựng nên. Ngày 17.3.1945,
ở các hương thôn, lý trưởng được lệnh tổ chức dân chúng mừng ngày độc lập tại
các đình làng: “Cửa đình mở rộng, trước sân đình có cờ, chuông, trống, như ngày
cúng Thần. Hội đồng xã chỉ lưa thưa có mấy ông. Dân chúng chẳng ai đến cả, trừ
một số chức việc có phận sự trong làng. Đến giờ, chuông trống nổi dậy, hương xã
làm lễ tế Thần. Lý trưởng đọc lời ‘tuyên cáo độc lập’. Y như một bài văn tế.
Xong, chiêng trống tiếp tục và buổi lễ chấm dứt không đầy 30 phút. Không một tiếng
vỗ tay. Không một lời hoan hô. Các ông làng xã, khăn đen áo dài khệ nệ như
trong các đám cúng Thần theo nghi lễ cổ truyền, lặng lẽ đóng cửa đình sau khi dọn
dẹp” (Nguyễn Vỹ, Tuấn – chàng trai nước Việt, Quyển II, Sài Gòn, 1970, tr.
513).
Cũng trong ngày 17.3.1945, Bảo Đại ban bố Đạo dụ số 1 theo
đó nhà vua sẽ đích thân cầm quyền và chế độ chính trị mới sẽ quản lý đất nước
theo khẩu hiệu “Dân vi quý” (dân trên hết), chỉnh đốn lại quốc gia, đồng thời
kêu gọi các bậc hiền tài ra giúp nước.
Ngày 18.3.1945, biểu tình lớn tại Sài Gòn để mừng độc lập, cảm
ơn Nhật, và đón rước di hài nhà cách mạng Dương Bá Trạc đưa từ Chiêu Nam
(Singapore) về (theo Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964-Việc từng ngày, Nam
Chi Tùng Thư, Sài Gòn, 1966, tr. 5).
Một ngày sau, giải tán Cơ mật viện gồm 6 quan chức tối cao của
triều đình nhà Nguyễn do Phạm Quỳnh đứng đầu.
Để chuẩn bị nội các mới, Bảo Đại hai lần gởi điện vào Sài
Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế, nhưng cả hai bức điện đều bị tình báo Nhật cố ý
ngăn chặn, nêu giả lý do Ngô Đình Diệm cáo bệnh không ra Huế được, vì thật ra
phương án sắp đặt cho hoàng thân Cường Để (1882-1951) lên ngôi vua và Ngô Đình
Diệm (1901-1963) giữ chức thủ tướng trước đó không lâu đã bị giới lãnh đạo quân
sự Nhật hủy bỏ, do không muốn gây nhiều xáo trộn, để thay vào bằng kế hoạch Bảo
Đại-Trần Trọng Kim cũng được chuẩn bị sẵn từ hơn một năm trước.
Ngày 30.3.1945, Nhật cho người bố trí đưa Trần Trọng Kim từ
Băng Cốc về Sài Gòn, lấy cớ Tư lệnh bộ ở Sài Gòn mời về để “hỏi việc gì về lịch
sử” (Trần Trọng Kim, sđd., tr. 42). Đến nơi viên trung tướng tham mưu trưởng
thuộc Bộ tư lệnh Nhật mới cho hay Phạm Quỳnh và các thượng thư cũ đã từ chức,
vua Bảo Đại mời ông cùng với các ông Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá
Bích, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩm về Huế hỏi ý kiến.
Thấy tên mình mà không có tên Ngô Đình Diệm, Trần Trọng Kim
hỏi viên trung tướng: “Tôi không có hoạt động gì, và không có phe đảng nào cả.
Gọi tôi về Huế không có ích lợi gì. Xin cho tôi ra Hà Nội thăm nhà và uống thuốc”.
Viên trung tướng trả lời: “Đó là ý của vua Bảo Đại muốn hỏi ông về việc lập
chính phủ mới, ông cứ ra Huế rồi sẽ biết” (sđd., tr. 43).
Ngày 2.4.1945, Nhật bố trí cho Trần Trọng Kim đáp xe lửa ra
Huế. 19 giờ rưỡi ngày 5.4 xe lửa đến Huế, lát sau ông đã được gặp lại vợ con có
sẵn ở đó, nói là đang trên đường ra Hà Nội định xin phép qua Xiêm tìm ông,
nhưng sự tình cờ kỳ lạ này đã khiến có người suy diễn nhiều khả năng chính người
Nhật đã sắp đặt sẵn sao đó.
Những thay đổi giai đoạn cuối trong sự sắp xếp nhân sự cho bộ
máy cai trị mới này, cả Bảo Đại, Cường Để, Ngô Đình Diệm đều không hay biết.
Duy Trần Trọng Kim có được người Nhật rỉ tai riêng cho biết hay không thì đây vẫn
còn là một điểm nghi vấn, vì không thấy ông hé môi kể ra trong tập hồi ký,
nhưng khả năng này là rất lớn, vì từ hôm ở Băng Cốc về Sài Gòn, chiều nào viên
đại úy ở Bộ tư lệnh Nhật cũng mời ông đến ăn cơm và nói chuyện, có khi nói chuyện
đến một hai giờ khuya. “Mấy ngày như thế, đến chiều hôm mùng hai tháng tư, đại
úy đưa tôi ra xe lửa còn ngồi nói chuyện đến lúc xe chạy” (Trần Trọng Kim, sđd.,
tr. 46).
Ngày 7.4.1945, Trần Trọng Kim vào yết kiến Bảo Đại. Theo như
lời kể của ông trong tập hồi ký thì ông tìm cớ thoái thác việc đứng ra lập
chính phủ, lấy lý do già yếu, không có đảng phái và không hoạt động chính trị,
rồi đề nghị dùng “người đã dự định từ trước, như Ngô Đình Diệm chẳng hạn”
(sđd., tr. 49) nhưng Bảo Đại cho hay đã gọi mà không thấy Ngô Đình Diệm về. Nhà
vua không ép, chỉ yêu cầu ông ở lại Huế nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc.
Có lẽ lúc này vua vẫn còn tiếp tục ngóng tin Ngô Đình Diệm, đâu có dè rằng kịch
bản Cường Để-Diệm đã bị cánh tướng lãnh Nhật bác bỏ, nên tìm cách ngăn chặn hai
bức điện liên lạc của Bảo Đại, giữa lúc ông Diệm đang ở Sài Gòn trong một tâm
trạng đợi chờ thấp thỏm!
Đợi tin Ngô Đình Diệm lâu không được, Bảo Đại sốt ruột quyết
định mời Trần Trọng Kim vào làm việc lần thứ hai, thuyết phục thành lập nội các. Xin trích tiếp đoạn hồi
ký, qua đó vừa thấy được nội dung cuộc trao đổi giữa hai người, vừa luôn thể biết
qua thành phần nội các do ông Trần đề nghị và được Bảo Đại chuẩn y ngay:
“Vua Bảo Ðại
thấy tình thế kéo dài mãi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập
chính phủ mới.
“Ngài nói:
“Trước kia người
mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải
tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình
bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy
ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước”.
Tôi thấy vua Bảo Ðại
thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng:
“Nếu vì quyền lợi
riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước,
thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người,
hễ có thể được tôi xin tâu lại.
Xuân Hãn để tìm
người xứng đáng làm bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định trước là lựa chọn những
người có đủ hai điều kiện. Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị,
hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục…
“Có một điều nên
nói cho rõ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản
không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ tìm lấy
người mà làm việc. Và tôi đã định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc
trong nước thì tôi thôi ngay, không làm nữa.
Ðến ngày cuối cùng
tôi chọn được đủ người rồi kê rõ danh sách các bộ trưởng như sau:
– Trần Trọng Kim,
giáo sư, Nội các Tổng trưởng
– Trần Ðình Nam, y
sĩ, Nội vụ Bộ trưởng
– Trần Văn Chương,
luật sư, Ngoại giao Bộ trưởng
– Trịnh Ðình Thảo,
luật sư, Tư pháp Bộ trưởng
– Hoàng Xuân Hãn,
toán học thạc sĩ, Giáo dục và Mỹ nghệ Bộ trưởng
– Vũ Văn Hiền, luật
sư, Tài chánh Bộ trưởng
– Phan Anh, luật
sư, Thanh niên Bộ trưởng
– Lưu Văn Lang, kỹ
sư, Công chính Bộ trưởng
– Vũ Ngọc Anh, y
khoa bác sĩ, Y tế Bộ trưởng
– Hồ Bá Khanh, y
khoa bác sĩ, Kinh tế Bộ trưởng
– Nguyễn Hữu Thí,
cựu y sĩ, Tiếp tế Bộ trưởng.
“Chừng mười giờ
sáng ngày 17 tháng tư năm 1945, tôi đem danh sách ấy vào trình vua Bảo Ðại. Vào
đến nơi, tôi thấy ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đã ngồi đó rồi. Ông thấy
tôi vào liền hỏi: “Cụ đã lập thành chính phủ rồi à?”. Tôi nói: “Vâng, hôm nay
tôi đem danh sách các bộ trưởng vào tâu trình hoàng thượng để ngài chuẩn y”.
“Tôi đệ trình vua
Bảo Ðại, ngài xem xong phán rằng: “Ðược”. Khi ấy ông Yokohama nói: “Xin cho tôi
xem là những ai”. Ông xem rồi, trả lại tôi và nói: “Tôi chúc mừng cụ đã chọn được
người rất đứng đắn”. Sự thực là thế, chứ không như người ta đã tưởng tượng là
người Nhật Bản bắt tôi phải dùng những người của họ đã định trước” (sđd., tr.
50-53).
Ngoài các bộ trưởng
đã nêu trong danh sách, bộ máy chính phủ Trần Trọng Kim còn lần lần được bổ
sung, gồm có:
– Phan Kế Toại
(1892-1992), Tổng đốc, Khâm sai Bắc Bộ (sau giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nội
vụ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
– Nguyễn Văn Sâm,
Nhà báo, Khâm sai Nam Bộ (được cử theo Đạo dụ 108 ngày 14.8.1945, sau bị ám sát
ngày 10.10. 1947)
– Trần Văn Lai,
Bác sĩ, Đốc lý Hà Nội (sau giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính TP Hà Nội)
– Đặng Văn Hướng
(1887-1954), Phó bảng, Tổng đốc Nghệ An (sau giữ chức Quốc vụ khanh đặc trách
công tác ở 3 tỉnh Thanh-Tĩnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
– Vũ Trọng Khánh
(1912-1996), Luật sư, Đốc lý Hải Phòng (sau giữ chức Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên
của Chính phủ Lâm thời)
– Kha Vạng Cân
(1908-1982), Kỹ sư, Đô trưởng Sài Gòn (sau giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
Qua sự trình bày ở trên, có thể thấy ngày càng rõ hơn việc
đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật
đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào “tròng”. Được cái, cả họ
và vua Bảo Đại đều không can thiệp sâu theo kiểu cơ cấu sẵn các thành phần nhân
sự cấp bộ trưởng, như lối quy hoạch, cơ cấu nhân sự chặt chẽ bây giờ. Nhờ vậy
Trần Trọng Kim đã có được sự chủ động trong việc tìm chọn nhân tài thích hợp
theo quan niệm của mình.
Tuy nhiên, theo luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), một
thành viên chủ chốt của Nội các, Trần Trọng Kim “không tin ở sự thành thật của
nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những biến cố có hại cho
tương lai xứ sở”, nhưng ông Trịnh đã thuyết phục được ông Kim nhận lời yêu cầu
của Bảo Đại với lý do “phải gấp rút thành lập chính phủ Việt Nam độc lập để đặt
các lực lượng Đồng minh, nhất là Pháp, trước một tình trạng pháp lý không thể đảo
ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ các hiệp ước bảo hộ…, tuyên cáo Việt Nam độc lập
và thống nhất”. Ngoài ra ông Thảo còn cho biết Trần Trọng Kim đã được một chính
khách Thái Lan là cựu Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Pridi Banomyong chia sẻ
kinh nghiệm “bắt cá hai tay” (jouer sur les deux tableaux) để có thể tồn tại
như Thái Lan, đại khái bằng cách song song với phe thân Nhật, Thái Lan cần dự bị
sẵn một lực lượng chính trị khác hợp tác với Đồng minh để tránh cho Thái Lan bị
liệt vào phe thua trận khi Thế chiến II kết thúc. Vị chính khách này còn khuyên
Trần Trọng Kim “hãy nắm lấy độc lập mà không theo Nhật” (Trịnh Đình Khải,
Décolonisation du Vietnam: Un Avocat Témoigne, Paris, 1994, tr.62, dẫn lại theo
Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995, Tiên Rồng, USA, 2004, tr. 52-53).
Nói gì thì nói, về mặt lịch sử, vẫn phải công nhận Nội các vừa
thành lập ngày 17.4.1945 là chính phủ đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại,
và Trần Trọng Kim đã trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập,
dù chỉ mới độc lập trên danh nghĩa. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí
thức tên tuổi, có trình độ học vấn cao, nhiệt tâm, trong sạch và yêu nước,
nhưng tất cả đều thiếu hẳn kinh nghiệm quản lý và nhất là sự lọc lõi chính trị
trong thời loạn.
“Trừ Thủ tướng
Trần Trọng Kim, chỉ có bằng cấp Trung học, chư quý vị bộ trưởng toàn có những bằng
cấp to lớn: nào thạc sĩ bác sĩ, tiến sĩ luật khoa v.v. cả. Người dân Việt mừng
thầm khi đọc danh sách nội các… Nhưng…” (Bùi Nhung, Thối nát, Sài Gòn, 1965,
tr. 50).
Về thái độ của quần chúng trước việc thành lập nội các mới,
nhìn chung các thành phần trí thức (gồm cả sinh viên học sinh) đều nao nức phấn
khởi đón luồng gió mới, một số khác dè dặt chờ đợi, vì thấy vẫn còn lệ thuộc Nhật.
Nhóm Thanh Nghị đứng đầu là Vũ Đình Hòe thậm chí từ ngày 20.4.1945 còn có hẳn một
chương trình riêng gọi là TÂN VIỆT NAM HỘI để ủng hộ Chính phủ (xemHồi ký Vũ
Đình Hòe, NXB Hội Nhà Văn, 2004, tr. 166-167).
Phấn khởi tiếp đón luồng gió mới độc lập vừa vớ được, ông
Nguyễn Duy Phương còn cho ra hẳn một tập sách mỏng chuyên đề lấy tên Lịch sử độc
lập và Nội các đầu tiên Việt Nam, do Việt Đông Xuất Bản Cục xuất bản tại Hà Nội
khoảng nửa tháng sau khi Nội các thành lập, để bày tỏ sự ủng hộ tích cực, bằng
cách trích đăng khá đầy đủ và hệ thống những tin tức, bài phỏng vấn các vị bộ
trưởng liên quan các mặt hoạt động cùng chủ trương mới của Nội các, với lời hô
hào nêu rõ: “Chỉ hợp quần mới gây nên sức mạnh… Chúng ta hãy đem hết tài năng
sĩ, nông, công, thương ra thực dụng. Để giải quyết những vấn đề quan trọng, để
tiếp tế, cứu tế cho đỡ nỗi thống khổ đồng bào nghèo đói! Và để giữ vững đất đai
thế nào là độc lập của Việt Nam một cách bất diệt”*.
Một số đảng phái quốc gia như Đại Việt (ở Hà Nội), Phục Quốc,
Việt Nam Quốc Gia Độc Lập (ở Sài Gòn), Tân Việt Nam (ở Huế) đều ủng hộ Nội các
Trần Trọng Kim và được Nhật khuyến khích.
Riêng dân chúng ở các vùng nông thôn thì vẫn thờ ơ với chính
trị.
Thế rồi đến ngày 8.5.1945, Nội các Trần Trọng Kim mới chính
thức tổ chức lễ ra mắt quốc dân tại Dinh Tổng trưởng (tòa Khâm sứ Trung Kỳ cũ).
Đầu tiên đọc bản Tuyên chiếu của Hoàng đế Bảo Đại về việc thành lập Nội các:
“Trẫm đã lựa chọn khắp nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có
kinh nghiệm để đương việc nước trong buổi bây giờ. Trẫm chắc rằng chư khanh sẽ
làm chức vụ không phụ lòng trẫm ủy thác và lòng dân kỳ vọng. Điều cần nhất là
phải gây sự đồng tâm hiệp lực trong toàn thể quốc dân. Phải đoàn kết chặt chẽ
các giai từng xã hội và luôn luôn giữ một mối liên lạc giữa chính phủ và nhân
dân (…)” (Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, NXB Mai Lĩnh, Sài Gòn, 1954, tr. 24).
Sau đó, Nội các đưa ra bản tuyên cáo khẳng định nền độc lập
mới có được sau 80 năm bị Pháp áp chế, cám ơn Nhật Bản đã ra tay “giải phóng”,
kêu gọi quốc dân ra sức đoàn kết, gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng
xã hội, “tìm mọi cách để các chính khách còn phiêu lưu được trở về tổ quốc, xóa
bỏ những hình án bất công, để những người ái quốc còn bị giam cầm trong lao ngục
có thể tùy tài sức mà tham dự vào công cuộc kiến thiết quốc gia”; chăm lo việc
cứu đói, định lại thuế khóa cho công bằng; đặt những cơ quan để liên lạc mật
thiết giữa chánh phủ với dân chúng; thống nhất pháp luật trong toàn quốc và
tránh sự lạm quyền, tiệt trừ nạn tham nhũng; rèn luyện lớp thanh niên mới có
khí khái có nghề nghiệp; chú trọng nâng cao trình độ sinh hoạt của dân chúng.
“Chúng tôi xin tuyên thệ với quốc dân đem hết tâm trí để theo đuổi mục đích duy
nhất là xây đắp nền độc lập nước nhà, không tư vị cá nhân hay đảng phái. Chúng
tôi chắc rằng mọi người trong quốc dân cũng một lòng vì nước, giữ thái độ bình
tĩnh và tuân theo kỷ luật, để làm hết phận sự. Mong nền móng xây đắp được vững
vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu” (nguyên văn bản tuyên cáo
này có in trong phần phụ lục Một cơn gió bụi, sđd., tr. 192-195).
Kế hoạch đặt ra đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, Chính phủ Trần Trọng
Kim tiếp quản bộ máy cai trị của Pháp, thông qua sự thu xếp bàn giao lại của Nhật,
đã hoạt động trong những điều kiện vô cùng khó khăn. Theo nhà sử học Pháp Philippe
Devillers, có hai điểm trở lực căn bản nhất, đó là sự thiếu chín muồi về chính
trị của dân chúng và quyền ngăn cấm của người Nhật: “Quyền cấm cố của Nhật là rất
nặng nề, cả về kế hoạch chính trị lẫn kế hoạch kinh tế và quân sự” (Histoire du
Viêt Nam de 1940 à 1952, Éditions du Seuil,1952, tr. 128). Ngoài ra, còn nhiều
nỗi khó khăn cụ thể và trực tiếp khác: bộ máy quan lại thực dân nửa phong kiến
đã thối nát quá lâu; nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc từ tháng 3.1945 vì mất mùa
và một phần quan trọng vì chính sách nông nghiệp thời chiến do Pháp-Nhật gây ra
làm cả triệu người chết, thây phơi đầy đường; bom đạn do quân Đồng minh Anh, Mỹ
đổ xuống phá nát các cơ sở hạ tầng làm cho công tác cứu đói của Bộ Tiếp tế càng
trở nên khó khăn trầy trật; Nhật ngày càng thua đậm trong trận Thế chiến (nhất
là sau hai lần bị ném bom nguyên tử trong các ngày 6 và 8.8.1945); Pháp lăm le
tái chiếm Đông Dương bằng mọi giá; thiếu sự hậu thuẫn tinh thần của quảng đại
quần chúng, trong khi đó, hoạt động của Việt Minh, được chuẩn bị từ lâu và một
cách khéo léo, có sách lược hẳn hoi, đang ngày càng tăng mạnh với chủ trương
đánh đổ cả Pháp-Nhật lẫn chính quyền phong kiến giành độc lập, được nhân dân
nhiều nơi trên khắp cả ba miền đất nước hưởng ứng. Nội các Trần Trọng Kim lâm
vào thế bị động và ngày càng lúng túng, phải chấp nhận từ chức, tiếp theo là việc
thoái vị của cả vua Bảo Đại vì áp lực của cao trào cách mạng.
Liên quan việc Nội các Trần Trọng Kim từ chức, cả hai tài liệu
Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim và Từ
triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe (NXB Hà Nội, 1983) đều
phản ảnh những thông tin cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau về một số chi tiết và
ngày tháng. Đại khái, trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc và xu hướng
quần chúng-trí thức ngã theo Việt Minh, nội bộ Chính phủ Trần Trọng Kim đã bắt
đầu có những dấu hiệu phân hóa về sự lựa chọn chủ trương, đường lối.
Được biết, trong khoảng thời gian này, Vũ Đình Hòe
(1912-2011), người đứng đầu nhóm Thanh Nghị, cùng chí hướng với hai bộ trưởng
Vũ Văn Hiền và Phan Anh (1912-1990), ban đầu rất tích cực ủng hộ Chính phủ Bảo
Đại-Trần Trọng Kim, nay thấy không ổn, bắt đầu có những cuộc tiếp xúc với người
của Việt Minh, thậm chí còn được đại diện của Việt Minh là Dương Đức Hiền
(1916-1963) kết nạp vào Đảng Dân chủ. Trong tập Hồi ký Vũ Đình Hòe (NXB Hội Nhà
Văn, 2004), ông cho biết: “Trước ngày 17 [tháng 6.1945] tôi đã gặp hai anh Phan
Anh và Vũ Văn Hiền, trao đổi nhận định về tình hình. Tôi cho hai anh biết tâm
trạng của anh em trí thức ngoài Bắc giảm sút lòng tin đối với Chính phủ [Trần
Trọng Kim], một số coi như Chính phủ bất lực rồi, còn dân chúng thì số đông ở
thành phố trước sau vẫn thờ ơ, một số dân quê ngày càng đông ngưỡng mộ Việt
Minh. Tôi thành thực thổ lộ với hai anh có lẽ nên dự bị ‘một hướng suy nghĩ
khác’ cho kịp thời chuyển” (tr. 183).
Trong một cuộc họp Nội các (Phạm Khắc Hòe nói ngày 3.8.1945)
ở Dinh Tổng trưởng, cả ba bộ trưởng Hồ Tá Khanh (1908-1996), Trần Đình Nam
(1896-1974), Nguyễn Hữu Thí đều đề nghị Nội các nên rút lui để nhường quyền lãnh
đạo cho Mặt trận Việt Minh càng sớm càng tốt, may ra mới cứu được đất nước. Nội
dung đề nghị này, cả ông Hòe lẫn ông Kim đều trình bày giống nhau trong tập hồi
ký của mỗi người. Nhưng về phản ứng của Nội các Tổng trưởng trước đề nghị rút
lui, mỗi người lại kể khác nhau.
Theo sự mô tả của Phạm Khắc Hòe thì ông Kim tỏ vẻ gay gắt,
trách các bộ trưởng thiếu trách nhiệm, không khí buổi họp trở nên căng thẳng
(Phạm Khắc Hòe, sđd., tr. 45), còn Trần Trọng Kim trong tập hồi ký của mình chỉ
nói: “Sự tôi thôi, thì tôi đã dự định rồi nhưng để lấy lại đất Nam Bộ cho trọn
công việc của mình, tôi thôi ngay” (sđd., tr. 89).
Cuộc họp phải tạm dừng. Hai ngày sau, 5.8.1945, toàn thể Nội
các dâng lên vua tờ phiến xin từ chức. Ngày 6.8.1945, Bảo Đại chấp nhận đơn từ
chức, nhưng yêu cầu tạm ở lại làm việc, chờ tìm người lập nội các mới. Trần Trọng
Kim tìm cách liên lạc với những người có đảng phái như Ngô Đình Diệm, Nguyễn
Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Đặng Thai Mai… mời ra Huế lập nội
các mới nhưng sau một tuần lễ không thấy ai hưởng ứng, mà theo ông Kim tâu lại
với Bảo Đại là do những người ông mời đều rất cách mạng, rất tả, và vì điều này
không làm vừa lòng người Nhật nên họ đã chặn điện lại. Trong khi chờ đợi, ngày
12.8.1945, Bảo Đại ra đạo dụ đổi nội các từ chức thành nội các lâm thời, làm việc
chỉ được mấy ngày thì Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (14.8.1945). Tình thế
bức bách, thế lực của Nhật coi như tan rã, Đồng minh mạnh lên, chủ trương vận động
vua Bảo Đại thoái vị của Việt Minh thông qua đầu mối liên lạc của Tôn Quang Phiệt
(1900-1973) được Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe tích cực ủng hộ, và
theo đề xuất của Trần Đình Nam, một cuộc họp khẩn cấp nội các đã được triệu tập
sáng ngày 17.8.1945 do vua đích thân chủ tọa.
Nhóm Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh đề nghị Nội các rút lui, vua
Bảo Đại thoái vị, toàn dân đoàn kết chặt chẽ chung quanh tổ chức mạnh nhất,
hăng hái nhất là Việt Minh để bảo vệ nền độc lập. Theo Phạm Khắc Hòe kể trong hồi
ký thì Trần Trọng Kim phản ứng, một cuộc tranh luận sôi nổi dấy lên, cuối cùng
thống nhất ý kiến với bộ trưởng Vũ Văn Hiền (1911-1963), đề nghị tạm thời vẫn
giữ chính thể quân chủ với vua Bảo Đại nhưng giao cho Việt Minh tổ chức nội
các, thể hiện trong Đạo dụ số 105 được Phạm Khắc Hòe soạn thảo ngay sau đó,
trong giờ giải lao 15 phút.
Trước cuộc họp, Phạm Khắc Hòe được sự ủng hộ của Trần Đình
Nam đã chuẩn bị sẵn một bản dự thảo theo đó khẳng định tư cách và ý chí độc lập
của dân tộc, kêu gọi mọi người ái quốc ra phò vua giúp nước, và động viên tinh
thần hi sinh của Hoàng đế. Khi bản dự thảo được vua Bảo Đại cho phép đọc lên,
Trần Trọng Kim phản ứng về việc hi sinh của Hoàng đế, cho là ép vua quá, trong
khi đó Phan Anh phát biểu dung hòa, nói để cho vua tự suy nghĩ quyết định. Bảo
Đại yêu cầu đọc lại đoạn “hi sinh của Hoàng đế” nêu trong bản dự thảo để nghe
cho rõ hơn, nghe xong vua đồng ý, giao cho Văn phòng (tức cho Phạm Khắc Hòe)
làm văn bản để chiều ký. Văn bản này tạm gọi là “Chiếu động viên quốc dân” mà Bảo
Đại đã ký ngay vào 4 giờ chiều hôm đó (17.8.1945) sau vài phút do dự và “một
cái nhún vai nhè nhẹ”, trong có đoạn: “Cuộc chiến tranh thế giới đã kết liễu…
Trước tình thế quốc tế hiện thời, trẫm muốn mau có nội các mới… Muốn củng cố nền
độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc, trẫm sẵn sàn hi sinh về tất
cả các phương diện. Trẫm để hạnh phúc của nhân dân Việt Nam lên trên ngai vàng
của trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc
rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hi sinh như trẫm” (Trần Trọng Kim, sđd.,
tr. 195-196; Phạm Khắc Hòe có dẫn lại trong Từ triều đình Huế…, tr. 58-59).
Trong một diễn biến khác, ngày 19.8.1945 khi thấy tình thế
đã nguy ngập đến nơi, “chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả”, đến lượt Trần Trọng
Kim cũng vào gặp vua, dẫn gương của vua Louis bên Pháp và vua Nicolas II bên
Nga, đốc thúc Bảo Đại phải thoái vị ngay không nên chần chừ (Trần Trọng Kim,
sđd., tr. 92).
Đến giờ phút này, cả Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Phạm Khắc Hòe
và phần lớn thành viên trong Nội các vẫn còn mơ hồ, chưa biết rõ lãnh tụ Việt
Minh là ai.
Với vai trò đã bí mật nhận với Việt Minh (thông qua Tôn
Quang Phiệt), Phạm Khắc Hòe tiếp tục tìm mọi phương tiện khéo léo vận động Bảo
Đại thoái vị, bằng cách luôn báo cáo với vua về những cuộc biểu tình của quần
chúng đả đảo phát-xít, ủng hộ Việt Minh, về huyền thoại dân gian “thánh Nguyễn
Ái Quốc” ra đời ở đất Nam Đàn… để khuyên nhà vua nên rút lui. Cuối cùng Hoàng đế
đồng ý nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là ‘Thánh Nguyễn Ái Quốc’ thì tôi
sẵn sàng thoái vị ngay” (Phạm Khắc Hòe, sđd., tr. 62). Nghe xong Phạm Khắc Hòe
khấp khởi vội vã lo soạn chiếu thoái vị, và hoàn tất ngay trong đêm 20.8.1945.
Gần trưa ngày 23.8.1945, Bảo Đại nhận được tối hậu thư của
Việt Minh, dưới đóng dấu “Thành bộ Việt Minh tỉnh Nguyễn Tri Phương” nhưng
không có ai ký tên, đòi nhà vua phải trả chính quyền cho nhân dân và hứa sẽ bảo
đảm tính mạng, tài sản cho hoàng gia, hạn cho nhà vua phải trả lời trước 13 giờ
30 phút ngày 23.8.1945 và cử ông Phạm Khắc Hòe làm người liên lạc giữa nhà vua
và Chính quyền cách mạng.
Theo đề nghị của Phạm Khắc Hòe, một cuộc họp nội các đã được
triệu tập ngay lập tức vào đúng 12 giờ 25 phút cùng ngày để kịp trả lời Việt
Minh đồng thời góp ý kiến cho dự thảo Chiếu thoái vị do chính ông Hòe khởi thảo.
Cuộc họp do vua chủ tọa, có mặt Trần Trọng Kim, Trần Văn Chương (1898-1986), Trần
Đình Nam, Trịnh Đình Thảo, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Hữu Thí, Phạm Khắc Hòe. Mọi người
đồng ý chấp nhận các điều kiện do Việt Minh đưa ra trong tối hậu thư, còn Chiếu
thoái vị thì chỉ sửa có mấy chữ “nồi da xáo thịt” thành “Nam Bắc phân tranh”.
Tờ chiếu lịch sử đó của Hoàng đế Bảo Đại, vua cuối cùng triều
Nguyễn sau 143 năm trị vì đất nước phong kiến mà hơn một nửa thời gian bị lệ
thuộc Pháp, chính thức đề ngày 25.8.1945. Ông chấp nhận từ bỏ ngôi báu một cách
khá mau lẹ một phần vì muốn đặt lợi ích của quốc dân lên trên, phần khác cũng
do bị áp lực từ nhiều phía và cũng chẳng còn cách nào khác.
Chiều ngày 26.8.1945, trong không khí buồn tẻ chỉ hiện diện
vài người thân cận, vua làm lễ cáo yết Liệt thánh về việc thoái vị ở Thế miếu
là nơi thờ Gia Long và các vua nối tiếp. Các quan văn võ được thông báo trước
nhưng đều không đến dự.
Chiều 30.8.1945, tại cuộc lễ thoái vị được cử hành long trọng
trước Ngọ Môn, Bảo Đại mặc triều phục tuyên độc chính thức Chiếu thoái vị, lời
lẽ chân thực cảm động, với sự có mặt của đại diện Việt Minh gồm các ông Trần
Huy Liệu (Trưởng đoàn), Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận cùng sự chứng kiến của
đám đông hàng vạn dân chúng:
“Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,
Vì nền độc lập của Việt Nam,
Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hi sinh tất cả,
và ước mong rằng sự hi sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
…
Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm
e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm
đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc
tranh chấp đó, đưa cả nước vào sau hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ
xâm lăng.
Trẫm không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã
chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm
không khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại
lợi ích đáng kể cho đất nước.
Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm
đã quyết định thoái vị, và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa.
…
Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các
đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước,
mặc dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp
cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã
được xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các
tầng lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn
vô điều kiện cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia.
Riêng về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải
qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một
nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc
lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa
hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta… (chép theo Con rồng
Việt Nam của Bảo Đại, tr. 187-188, có một số câu chữ khác hơn so với văn bản
chép trong Phụ lục hồi ký Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim).
Đọc xong, vua Bảo Đại trao kiếm vàng và ấn ngọc cho đại diện
Việt Minh là Trần Huy Liệu, biểu thị chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng ở
Việt Nam. Nội các Trần Trọng Kim, mà ba tuần lễ sau cùng đổi gọi Nội các Lâm thời,
coi như cũng chấm dứt nhiệm vụ lịch sử.
Trong hồi ký Con rồng Việt Nam (Hồi ký chính trị 1913-1987,
Nguyễn Phước Tộc xuất bản, 1990), cựu hoàng Bảo Đại sau này nhớ lại: “Bản tuyên
ngôn được đọc trong sự yên lặng hoàn toàn. Tôi quan sát các khán giả đứng hàng
đầu. Tất cả các vẻ mặt đều tỏ vẻ ngạc nhiên cùng cực. Nam và nữ đều ngẩn ngơ. Bản
tuyên ngôn thoái vị của tôi như tiếng sét đánh xuống ngang đầu họ. Họ lặng người
đi. Trong một bầu không khí bực dọc, tôi trao nhanh ấn tín, quốc bảo của hoàng
triều cho Trần Huy Liệu, mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây mà lại.
Trong khi tôi hồi cung, đám đông tan rã, không một tiếng kêu” (tr. 188).
Ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
chấm dứt chế độ phong kiến, khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về phần Nội các Trần Trọng Kim, mặc dù chỉ tồn tại trong thời
gian chưa đầy 4 tháng (từ 17.4 đến
7.8.1945, nếu tính đến 23.8.1945 khi quyết định xong Chiếu thoái vị thì được 4
tháng 6 ngày, tổng cộng 126 ngày, tương đương 1/3 năm) và làm việc trong những
điều kiện vô cùng khó khăn, nhất là khi vẫn bị quân đội Nhật kiềm chế mọi mặt,
Nội các đã tỏ ra năng nổ, nhiều thiện chí và cũng đã làm được một số việc đầy ý
nghĩa, đáng ghi nhận:
– Tháng 6 năm 1945, đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam (bỏ
tên Đại Nam, Annam); tạm duy trì bài quốc thiều “Đăng đàn cung”; đổi mới quốc kỳ,
thay cờ Long tinh bằng cờ quẻ Ly có nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly
màu đỏ thẫm.
– Bộ Tiếp tế tập trung cao độ lo việc cứu đói nhưng kết quả
rất hạn chế vì phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ và nhất là giao
thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt.
– Thanh trừng quan tham lại nhũng với kết quả hạn chế, vì thời
gian ít và điều kiện khó khăn trước mắt về nhân sự chưa cho phép làm mạnh.
– Tha thuế thân cho người dân và cho những công chức có thu
nhập thấp. Thực hiện sự công bằng về thuế khóa.
– Chủ trương tăng lương cho tiểu công chức, bỏ các món chi
tiêu huy hoàng vô ích.
– Can thiệp với Nhật để từ ngày 9.8.1945 tổng ân xá các tù
chính trị, kể cả những người cộng sản đã bị Pháp bắt giam tại các nhà lao và
nhà ngục khổ sai. Chủ trương trừng thanh quan lại và bài trừ tệ hối lộ.
– Đấu tranh với Nhật đòi lại các công sở và lấy lại được ba
thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20.7.1945.
– Ngày 1.8.1945, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai cho phá các tượng
Pháp ở Hà Nội vốn biểu trưng cho nền thống trị ngoại bang, như tượng Paul Bert,
Jean Dupuis, Đầm Xòe ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm Lính Khố xanh, Khố đỏ.
– Ngày 14.8.1945, tranh thủ lấy lại Nam Kỳ cho triều đình Huế,
thống nhất (về mặt danh nghĩa) đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam.
– Chủ trương cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
– Về tư pháp, thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp trên cơ sở
thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn. Đạo luật
tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên ở Việt Nam là do chính phủ Trần Trọng Kím soạn thảo
và ban hành ngày 5.7.1945.
– Đổi chương trình học tiếng Pháp ở bậc Tiểu học và Trung học
sang chương trình tiếng Việt, do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn
chủ trì biên soạn.
– Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả
các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lãnh vực y tế và các văn thư liên lạc với
Pháp hoặc với các công ty người Hoa.
– Bộ trưởng Bộ Thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh
niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội. Trường Thanh niên Tiền tuyến đã đào tạo ra
nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.
– Trong giai đoạn tồn tại cuối, nhận thức được trào lưu,
tham gia dàn xếp êm và nhanh chóng việc thoái vị của Bảo Đại để trao quyền lãnh
đạo cho chính quyền cách mạng, tránh một cuộc xung đột đổ máu rất có thể xảy ra
nếu có sự kháng cự.
Nhìn chung, xét trên những điều kiện lịch sử cụ thể, trong
vô vàn khó khăn các mặt, Nội các Trần Trọng Kim dưới sự lãnh đạo đầy thiện chí
của vua Bảo Đại đã đạt được một số thành công nhất định, nhưng tất cả đều dang
dở. Một số việc quan trọng về nội trị, ngoại giao đều rất sáng suốt nhưng chỉ vừa
kịp đưa ra chủ trương thì thời cuộc đã chuyển sang hướng khác.
Trong số những thành tích kể trên, thành tích chói lọi nhất
tiếp tục ảnh hưởng tốt đến các giai đoạn chuyển tiếp và thậm chí đến bây giờ là
chương trình cải cách giáo dục tiếng Việt do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) chủ trì biên soạn (quen gọi tắt Chương trình Hoàng
Xuân Hãn), hoàn thành chỉ trong vòng vài tuần lễ, và được đem ra áp dụng ngay ở
miền Trung và miền Bắc (miền Nam vì có sự trở lại của người Pháp nên chương
trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950). Nếu không đủ nhiệt
tâm yêu nước và trình độ vững vàng, trên không có “minh quân” một lòng ủng hộ,
quyết định nhanh, làm sao một chương trình giáo dục quan trọng như vậy có thể
được hoàn thành mau chóng với tốc độ kỷ lục, mà nếu đem so sánh với cách làm việc
luộm thuộm ngày nay, với suốt mấy chục năm chương trình học vẫn chưa ổn định,
chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt một trời một vực!
Theo GS Dương Thiệu Tống (1925-2008), so với các chương
trình trung học Việt Nam về sau đó, chương trình Hoàng Xuân Hãn là một chương
trình cải tổ nền trung học Việt Nam sâu rộng nhất, từ việc thay đổi cấu trúc nền
trung học cho đến việc đặt ra những môn học mới, thay đổi nội dung các môn học
cũ, nhưng nó đã được thực hiện trong thời gian ngắn nhất và với số giáo sư tham
gia ít ỏi nhất. Mỗi môn học chỉ có một hoặc hai người soạn thảo cho tất cả các
lớp của bậc trung học từ lớp đệ nhất niên cho đến lớp đệ tam chuyên khoa.
“Từ khi ra đời cho đến khi giải tán để nhường vai trò lịch sử
cho Mặt trận Việt Minh…, nội các Trần Trọng Kim chỉ đứng được 4 tháng, nếu
không làm được nhiều việc vĩ đại nhưng ít nhất phải nhận nội các này đã tỏ ra
có nhiều thiện chí. Tuy nhiên xét về năng lực, ta thấy Nội các này chỉ có thể
thích hợp cho thời bình, do đó ta không lấy làm lạ khi thấy nó lùi bước nhanh
chóng trước sự tiến triển mau lẹ của cao trào Cách mạng năm 1945” (Phạm Văn Sơn,
Việt sử toàn thư, Sài Gòn, 1960, tr. 706).
Nội các Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của
quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương. Chính sách Đại Đông Á, “xây dựng khu vực
thịnh vượng chung” của Nhật trước sau vẫn chỉ là một tên gọi khác cho ách thống
trị mới của quân phiệt Nhật, và Trần Trọng Kim với tính cách một học giả chưa lọc
lõi chính trị đã có lúc nhẹ dạ đặt niềm tin không đúng chỗ.
Về phần cá nhân Trần Trọng Kim, sau khi hoàn toàn rời khỏi
chức vụ cùng với vua Bảo Đại (23.8.1945), ông tạm ở lại Huế khoảng hơn ba tháng
trong cảnh sinh hoạt buồn tẻ chờ thu xếp điều kiện trở ra Hà Nội cuối tháng
11.1945. Trong lương tâm thanh thản vì tự cho mình đã làm hết trách nhiệm, ông
luôn tỏ ra ngậm ngùi thân thế, chán bỏ công danh, và như lời ông nói, “thế là
xong một giấc mộng Nam Kha” (sđd., tr. 98), định bụng già yếu rồi “Không có làm
gì nữa và cũng chẳng đi đâu cả, chỉ vui với mấy quyển sách cổ và mấy người bạn
cũ, trò chuyện tiêu khiển. Tưởng thế là yên, ngờ đâu tình thế phải phiêu lưu lần
nữa” (sđd., tr. 100). Tình thế “phiêu lưu” đó trước nhất là vì cảm thấy “không ở
yên”, như lời ông tâm sự với một bạn vong niên (xem Lãng Nhân, sđd., tr. 87),
và phần khác muốn tránh trước cuộc binh lửa Việt-Pháp dự đoán sắp xảy ra, kết hợp
với mục đích phụ “xem công việc của các nhà cách mạng xưa nay tuyên truyền rầm
rĩ, nếu có thật mà làm được việc gì càng hay, nếu không cũng là một dịp cho ta
ra khỏi cái hoàn cảnh nguy hiểm này” (sđd., tr. 132). Những chi tiết này cho thấy,
Trần Trọng Kim tuy có xu hướng chính cầu an, đã biết ngán ngẫm công danh nhưng
vẫn chưa thật sự “tắt lửa lòng”, mà vẫn còn có ít nhiều dự định chính trị nhưng
chỉ với thái độ cầu âu tiêu cực, được chăng hay chớ.
Thế rồi cuối tháng 5.1946, từ Hà Nội ông đã tìm đường lưu
vong sang Trung Quốc, theo đường bộ Lạng Sơn, có ý muốn liên lạc lại với Bảo Đại
và các nhóm “tòng vong” vì Bảo Đại đã được cử sang đó từ trước hồi tháng 3.1946
dưới danh nghĩa cố vấn cho Chính phủ Lâm thời giao hảo với chính quyền Tưởng Giới
Thạch, nhưng sau đó đi Hồng Kông rồi không về nước.
Sau nhiều năm tháng sống thiếu thốn ở Quảng Châu và Hồng
Kông, ngày 6.2.1947, ông trở về Sài Gòn ở tạm nhà luật sư Trịnh Đình Thảo. Người
Pháp cùng cựu hoàng Bảo Đại thu xếp cho ông trở về Sài Gòn lần này là để thăm
dò, vận động thành lập chính phủ mới, nhưng khi về đến, ông nhận ra những lời hứa
hẹn của Pháp đều giả dối nên quyết định không làm gì.
Về giai đoạn ở Pháp về, ông có kể trong tập hồi ký, và ở một
chỗ khác, kể rõ hơn cho người em trai vợ mình là Bùi Nhung nghe: “Tôi trở về nước
có nhiệm vụ dọ dẫm xem Pháp có thật tình không, nghĩa là có cho Việt Nam tự do,
độc lập thật sự như trong khối thịnh vượng chung của Anh không? (Commonwealth),
Tôi gặp ông Cao ủy ở Sài Gòn. Sau 1 giờ chuyện trò, tôi biết rõ cái dã tâm của
thực dân! Liên hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng! Ông Cao ủy, lúc tiễn
tôi ra cửa, có nhã ý muốn nhân danh chánh phủ Pháp giúp tôi một số tiền mở nhà
in, để theo đuổi con đường văn hóa. Tôi cám ơn, không nhận. Cũng tiền của dân
Việt Nam chứ tiền đâu của Pháp! Hồi Nhật đầu hàng Đồng minh, các cố vấn Nhật biếu
tôi một lúc cả 5 chục triệu để làm vốn mở mang văn hóa tôi cũng kiếu, huống hồ
của thực dân. Các ông chánh khách tưởng tôi về nắm ghế Thủ tướng, kéo đến chật
căn nhà… Khổ quá, có ông bám sát suốt ngày đêm… Có một ông, ông Luật sư cậu biết
đó, đêm đến kê ghế bố nằm cạnh giường, nói chuyện cả đêm! Mình mất ngủ, mệt phờ.
Tôi đã thú thật với các ông ấy tôi không làm gì cả, các ông không tin!…” (sđd.,
tr. 99-100).
Qua một bức thư mới được phát hiện và công bố gần đây, gởi
cho Hoàng Xuân Hãn, được ông viết từ Sài Gòn đề ngày 8.5. 1947, chúng ta còn biết
chắc thêm nhiều sự thật về những hoạt động và quan điểm chính trị của ông liên
quan đến người Pháp, cựu hoàng Bảo Đại và một số đảng phái quốc gia, vì đây là
bức thư ông viết riêng cho người tâm phúc, không che giấu sự thật: “Tôi xem thư
của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch
ra quốc ngữ, gửi sang để Ngài [tức Bảo Đại] xem…. Cái tình thế nước ta bây giờ,
tôi cũng hiểu đại khái như ông… Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy,
hoang mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau do ông D’Argenlieu sai
sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái độ để cầu hoà bình. Ngài thấy
thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý
tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ
khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa vụ của mình, nếu không thì lương tâm ta cũng
yên, vì đã cố hết sức mà không làm được. Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây, không
gặp ông D’Argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy
sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói
chuyện thì tử tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo,
toàn là những việc mưu mô lừa dối cả….Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy
gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng,
họ phao ra rằng tôi nhu nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người
Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả….Dù sao,
tôi cũng không ân hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biết rõ sự thực. Biết
rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi
nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên ổn thì tôi về ngoài Bắc, nếu không
thì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu. Còn về phương diện người
mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu
vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa
miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành
nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau…. Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó
khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa
vị bàng quan mà thôi… Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi…
Nay V.M. đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh…. Đó
là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết…” (theo Nguyễn
Đức Toàn, Viện nghiên cứu Hán Nôm).
Đầu tháng 3.1948, ở tuổi 65, vừa túng thiếu vừa mệt mỏi và bất
lực trước thời cuộc, lại bị đám chính khách cơ hội tối ngày bao vây trong căn
nhà ở đậu chật hẹp của người anh vợ, ông quyết định bỏ Sài Gòn qua Nam Vang
(Phnom Penh, Campuchia) sống với người con gái, cũng trong cảnh nghèo túng.
Trong thời gian này, ông đã tập hợp các bản thảo nhật ký của mình viết thành cuốn
hồi ký Một cơn gió bụi, mà phần kết thúc là nêu lên một số nhận xét về những chỗ
hay dở của phong trào Việt Minh và khẳng định tấm lòng chân thành của ông đối với
dân tộc. Đây là quyển sách chứa được nhiều sử liệu quý hiếm mà ta không thể tìm
thấy bất kỳ ở đâu trong số những tập “chính sử” hiện đại, rất cần được giới
nghiên cứu sử học quan tâm khảo định kỹ vì có thể còn một số chi tiết chưa
chính xác, để viết lại bộ thông sử sau này, nhất là về những sự kiện lịch sử Việt
Nam liên quan giai đoạn 1945-1949.
Tâm trạng ông vào khoảng thời gian tạm trú Nam Vang được ghi
lại ngay trong đầu sách qua hai câu thơ trích dẫn của Đái Thúc Luân (732-789)
thời Đường: Liêu lạc bi tiền sự/ Chi li tiếu thử thân (Quạnh hiu buồn nỗi trước
kia/ Vẩn vơ chuyện vặt, cười khì tấm thân).
Và trong đoạn tâm sự gần cuối tập hồi ký: “Tôi nay già rồi, không còn
hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ mong được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn
tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân thực của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa
đi qua, trải bao những cảnh huống đau buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp,
tôi duy trì được đến bây giờ, mà không trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn
vậy” (sđd. tr. 185).
Lãng Nhân kể: “Vốn là người nho nhã phác thực và chân thành,
khi không bị lôi cuốn vào trường chính trị, phải đối phó với một canh bạc thò
lò sáu mặt, không thích ứng với lòng mình, nên mỗi khi nhàn thoại ông hay mân
mê điếu thuốc lá vấn tay, chặc lưỡi một đường triết lý: Nghĩ cho cùng, ở đời chẳng
cái đếch gì ra cái đếch gì…” (sđd., tr. 67).
Ít lâu sau ông trở về Việt Nam, rồi thuê nhà định cư tại Hà
Nội.
Sau khi do lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại về Sài Gòn dự Đại
hội đồng Quốc gia (còn gọi “Quốc dân đại hội”) từ ngày 6.9.1953, được bầu làm
Chủ tịch Chủ tịch đoàn nhưng chỉ hư vị và không thực tế làm gì, ông lên Đà Lạt
định sống an dưỡng cùng với gia đình nhưng chưa được bao lâu thì mất đột ngột tại
đây vì bị đứt mạch máu ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi, thi thể được đưa
máy bay về Hà Nội an táng, cạnh chùa Láng, .
Theo cách kể có phần hơi úp mở trong tập hồi ký của Bùi
Nhung, em trai vợ ông, cũng là người rất yêu quý gần gũi ông, thì cái chết đột
ngột của Trần Trọng Kim có khả năng do bàn tay của thực dân cùng bọn a
tòng hãm hại, sau một mũi thuốc chích của
ông bác sĩ quen tên Phiếm, Thị trưởng Đà Lạt (sđd., tr. 103-104).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét