Tác giả: Trần Văn Chánh
“Một cơn gió bụi”
Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân
học lẫn cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc-bảo hoàng. Chính Phan
Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong Nội các trước đây của ông đã từng nhận xét: “Trần
Trọng Kim là một người yêu nước nhưng không phải là một nhà chính trị”.
Không ai phủ nhận Nội các Trần Trọng Kim là do Nhật lập ra để
lèo lái theo ý đồ chính trị của Nhật (chuyện này chính Trần Trọng Kim và những
người xung quanh ông cũng đã biết trước và sau khi chấp chính), nhưng nội các
đó có “tay sai bù nhìn” hay không thì lại là vấn đề đã gây nên nhiều tranh cãi.
Bùi Diễm cháu gọi ông bằng chú (miền Nam gọi dượng) có lẽ là
một trong những người có điều kiện tiếp xúc gần gũi và rành rẽ hơn hết về tính
cách ngây thơ chính trị của ông cũng như của cả nhóm bộ trưởng dưới quyền ông,
đã từng đánh giá: “Cụ Kim vẫn còn bị những khuynh hướng tổ chức theo lối cổ
ngày xưa ảnh hưởng rất nhiều. Khi tìm người ra phục vụ, cụ đã mời những người vừa
xuất sắc về học vấn, vừa chánh trực thanh liêm về cùng làm việc. Cụ coi đây là
những đức tính tiên quyết, bắt buộc phải có ở những người phục vụ đất nước. Khi
nhìn lại bằng con mắt hiện thời thì quả thật lúc loạn ly bấy giờ chưa chắc đã
phải là lúc của những đức tính như vậy….Tuy thế, hầu hết các nhân viên trong cả
chánh phủ đều thiếu kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Khi giải quyết các vấn đề
chính trị, họ thường giải quyết dựa vào các quan niệm lý thuyết. Họ sẵn sàng
tán thành các giải pháp được đề ra, miễn là những giải pháp đó có vẻ hợp luận
lý….Tuy không hề nghe lệnh [người Nhật], họ cũng chẳng hề biết rõ thấu đáo tình
hình chính trị và quân sự đang gây sóng gió chung quanh…. Họ chẳng biết tí gì về
người Mỹ…. Theo tôi nhớ thì hình như các bộ trưởng chưa bao giờ nói gì đến chuyện
ông Hồ Chí Minh hoặc Việt Minh…. Ngay cả đến người Nhật, mà tôi nghĩ là họ phải
hiểu hơn cả, họ cũng chẳng biết rõ ý định của người Nhật. Dường như họ cũng chẳng
lo lắng mấy về vấn đề người Nhật sắp sửa thất bại…. Theo tôi thấy thì có lẽ ông
[ông chú tôi] không màng gì đến chuyện tranh chấp quyền lực trong tương lai.
Ngược lại, ông đã nghe về Việt Minh và đang tự hỏi xem thật sự họ có phải là
nhóm người lãnh đạo hữu hiệu nhất cho quốc gia vào những ngày khó khăn sắp tới
hay không? Ông bảo tôi rằng hình như đảng Việt Minh đã được Hoa Kỳ ủng hộ. “Nếu
đúng như vậy thật”, ông nói tiếp “thì ta vui lòng nhượng quyền cho họ”… Một tuần
sau thì có tin Nhật đầu hàng Đồng minh, ở Huế tình hình chẳng những đã cực kỳ
sôi sục, mà còn rối ren mù mịt. Vì chưa sửa soạn kỹ lưỡng để nắm quyền, khi định
mệnh xô ngã Nhật, chánh quyền của ông chú tôi hoàn toàn bỡ ngỡ, không biết phải
hành động ra sao….Tuy thế sau khi cụ Kim đã quyết định [từ chức] thì tất cả những
cảm giác vui buồn lẫn lộn đều hoàn toàn biến mất. Cụ đã nói với tôi rằng: ‘Giờ
chú hoàn toàn vui mừng như xưa, sẽ có người khác phải gánh trách nhiệm. Thật là
nhẹ nhàng vô cùng’”.
Do cái ngả rẽ sang con đường chính trị mà không thành công
như niềm tin có thể ngây thơ và chí hướng tốt đẹp, sau khi Cách mạng tháng
8.1945 thành công, và nhất là sau năm 1954, cũng vì cái lý lịch chính trị đó,
nên tương tự như trường hợp Phạm Quỳnh, ở miền Bắc người ta không nhắc gì đến
ông nữa, cả về phương diện học thuật. Cá nhân Trần Trọng Kim cùng với quyển Việt
Nam sử lược nổi tiếng một thời đã bị một số nhà sử học mác-xít đầu đàn như Trần
Huy Liệu, Trần Văn Giàu… phê phán nặng nề bằng một số cụm từ như bù nhìn, phản
dân tộc… Các sách giáo khoa môn sử cũng theo đó mà đưa ra các nhận định, hoặc mạt
sát nặng nề, hoặc chỉ nhắc lướt qua như một chi tiết phụ không đáng kể…, khiến
cho học sinh và thậm chí một số trí thức tương đối trẻ ngày nay không còn biết
Trần Trọng Kim là ai và nội các do ông lãnh đạo có vai trò lịch sử như thế nào
nữa.
Riêng cuốn Việt Nam sử lược đã từng bị coi là sách cấm, khiến
cả những giáo sư dạy sử trong trường đại học (như GS Trần Quốc Vượng…) cũng chỉ
dám cất giấu đọc lén, bởi vì theo quan điểm chính thống, “những người làm công
tác sử học Việt Nam đã bóc trần các quan điểm sử học thực dân phong kiến trong
một số sách lịch sử do bọn bồi bút thực dân biên soạn, mà tiêu biểu là cuốn Việt
Nam sử lược của Trần Trọng Kim” (xem Văn Tạo, “Khoa học lịch sử Việt Nam trong
mấy chục năm qua”, Sử học Việt Nam trên đường phát triển, Viện Sử học, NXB Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội, 1981, tr. 9).
Khoảng hơn chục năm gần đây, qua lớp bụi thời gian, “tội lỗi”
của Trần Trọng Kim đã dịu bớt, người ta bắt đầu biết đến rồi nhận ra giá trị,
cho in đi in lại nhiều lần những Việt Nam sử lược, rồi Nho giáo, Phật giáo, Phật
lục… , nhất là bộ sách Quốc văn giáo khoa thư và Luân lý giáo khoa thư do ông chủ trì nhóm
biên soạn. Từ năm 2000, tức 47 năm sau khi Trần Trọng Kim qua đời, mới thấy mục
từ TRẦN TRỌNG KIM bắt đầu xuất hiện trong cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Nam do Đinh Xuân Lâm-Trương Hữu Quýnh chủ biên (NXB Giáo Dục). Năm 2004, khi bộ
sách quy mô Từ điển Văn họcbộ mới ra đời (NXB Thế Giới), mục từ TRẦN TRỌNG KIM
lại được đưa vào một cách trân trọng hơn, do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ
Chi trình bày, với gần đầy 3 trang giấy khổ lớn, bỏ hết mọi lời công kích.
Trong số những nhà sử học trụ cột thế hệ tiếp sau Trần Huy
Liệu-Trần Văn Giàu, mặc dù vẫn ở trong phái “chính thống” hay “dòng chính”, mọi
người nhận thấy dường như chỉ có GS Đinh Xuân Lâm đi trước một bước với những
quan niệm, nhận định cởi mở và chính xác hơn về nhân vật lịch sử Trần Trọng
Kim, khi ông nói: “Chúng tôi cho rằng Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật là
chính xác vì thực tế nó ra đời là do bàn tay Nhật tạo dựng và theo ý định của
Nhật, nhưng bảo rằng nó là bù nhìn e rằng chưa thật sự đúng, vì trong thực tế
nó vẫn có những chủ trương và việc làm ngoài ý muốn của Nhật và có lợi cho dân,
cho nước” (Trường Thanh niên tiền tuyến Huế-1945: Một hiện tượng lịch sử, NXB
Công An Nhân Dân, 2008).
Cho đến nay, biên khảo về Trần Trọng Kim nói chung và về Nội
các Trần Trọng Kim nói riêng, theo sự hiểu biết của chúng tôi, có lẽ chưa có
công trình nghiên cứu nào tập hợp đầy đủ tư liệu và viết có phương pháp, hệ thống
bằng cuốn Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của Phạm
Hồng Tung (NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2009; tái bản năm 2010).
Cuốn sách nêu trên, dày 380 trang, đoạt Giải thưởng ĐHQG Hà
Nội 2010, nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể hoàn cảnh, nguyên nhân ra đời,
các chủ trương, chính sách và hoạt động của Nội các Trần Trọng Kim, để đi tới
cách đánh giá có phần tiến bộ hơn so với các thế hệ đi trước về bản chất, vai
trò và vị trí lịch sử của nó. Tuy nhiên nếu đứng trên phương diện quan điểm
đánh giá lịch sử mà xét thì dường như tác giả cũng chỉ dựa chủ yếu theo quan điểm
“chính thống” để giải thích mọi hiện tượng lịch sử, theo hướng minh họa cho nổi
bật thêm những nét thành công của Cách mạng tháng Tám và ít nhiều có thái độ ác
cảm với nhân vật họ Trần (biểu hiện qua lời lẽ diễn đạt, thể cách xưng hô, gọi
Trần Trọng Kim là “ông ta”…). Từ đó, Phạm Hồng Tung đã chỉ tổng hợp các cách
đánh giá, chỉnh sửa đôi chút để đi đến những kết luận ít cực đoan hơn so với
phái “chính thống” cũ, khi cho rằng: (1) Nội các Trần Trọng Kim vẫn là một
chính quyền bù nhìn của người Nhật, nhưng đó chỉ là một chính quyền bù nhìn thụ
động, không phải là chính quyền tay sai đắc lực của người Nhật; (2) Trong thời
gian tồn tại ngắn ngủi của nó, đối với việc phụng sự chủ quyền quốc gia và lợi
ích dân tộc, Nội các Trần Trọng Kim đã có một số đóng góp quan trọng, đáng được
ghi nhận; (3) Việc luận chứng đầy đủ về bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của
Nội các Trần Trọng Kim và hệ thống chính quyền bù nhìn thân Nhật đã góp phần
quan trọng để khẳng định rằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt
Nam là cuộc cách mạng thực sự mang tính chất dân tộc và tính chất dân chủ sâu sắc
(xem Phạm Hồng Tung, tr. 343-367).
Với cách đánh giá của Phạm Hồng Tung, tuy có bị ảnh hưởng
nhiều bởi những nguồn thông tin “ác cảm” từ tập hồi ký Phạm Khắc Hòe, Nội các
Trần Trọng Kim đã được “giảm án” đi đôi chút. Tuy nhiên, trong quá trình phân
tích đánh giá, một vài nhận xét của tác giả chỉ dựa trên những suy luận gán
ghép đơn thuần chứ không căn cứ vào lẽ công bằng và kinh nghiệm thực tế, như
nói “Trong suốt hơn ba tháng cầm quyền, nội các này không hề biếm phạt nghiêm
khắc một viên quan nào…” để phê bình sự
biện bạch của Trần Trọng Kim trong việc chỉnh đốn quan trường (tr. 210-211); hoặc
“một chính phủ bù nhìn, bất lực trước những nhiệm vụ do tự nó đặt ra” (tr.
196)…, là những vấn đề mà chỉ trong vòng 4 tháng thì không một nhà chính trị thần
thánh nào có thể làm khác nổi.
Năm 1962 được thầy Trần Quốc Vượng lén chỉ và khuyên tìm đọc
Việt Nam sử lược, ông Mai Khắc Ứng từ đó hết sức trân trọng Trần Trọng Kim cùng
tác phẩm sử học của ông, và mãi đến gần đây mới viết ra được một số ý kiến, tâm
tư của mình trong bài “Trần Trọng Kim với Việt Nam sử lược”, đăng trên Tạp chí
Xưa & Nay (số 346, tháng 12.2009).
Để biện hộ cho tính chính đáng trong lựa chọn-hành động
chính trị của Trần Trọng Kim, tác giả bài báo đưa nhiều lý lẽ như: Trần Trọng
Kim là một học giả không có thủ đoạn chính trị và tham vọng quyền lực, thực sự
chưa hề chuẩn bị làm chính khách đứng ra thành lập Chính phủ. Nhân tình thế chủ
quan, khách quan của đất nước nửa đầu năm 1945, ông nhận ra con đường thực thi
phận sự công dân trước vận mệnh Tổ quốc…. Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập
đơn giản bao nhiêu thì cáo chung cũng nhẹ nhàng, thanh thản bấy nhiêu, không có
ai trong hàng các bộ trưởng tỏ ra cay cú bực dọc phản ứng thù hận…. Nếu họ là
bù nhìn tay sai Nhật thực sự thì ngay thời điểm đó và cả sau này nữa, tại sao
nhiều người đã trở thành cán bộ cao cấp của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà?… Tạm thời bắt tay với Nhật để yên thân thành lập một Chính phủ hợp hiến
tìm sự ủng hộ của công luận trong và ngoài nước, trước khi Pháp gây hấn là toan
tính khôn khéo của Trần Trọng Kim và Chính phủ. Pháp lo sợ điều này và săn đuổi
Trần Trọng Kim là lẽ đương nhiên…. Một điều không nói ra nhưng ai cũng biết là
Pháp quay lại Việt Nam lần này với hai sứ mạng. Một là giành Đông Dương từ tay
Nhật bại trận. Hai là ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa Cộng sản. Chính phủ
Trần Trọng Kim là trở lực của hai sứ mạng đó… Còn nếu cho rằng mọi sự bắt tay
trong quan hệ bang giao là tay sai thì tội cho những người trước và sau Trần Trọng
Kim lắm lắm….Có một chi tiết đáng được lưu ý là Trần Trọng Kim đã yêu cầu Nhật
mở cửa các nhà tù của Pháp, ân xá toàn bộ chính trị phạm, kể cả người tù cộng sản….
Rồi đi đến kết luận dứt khoát:
“Với tôi, Trần Trọng Kim qua Việt Nam sử lược là một người
yêu nước thành tâm, một nhà sử học chân chính, trung thực, một người cầm bút có
nhân cách, một học giả xuất sắc đã cống hiến phần trí tuệ, chí ít cho các thế hệ
nửa đầu thế kỷ XX và Chính phủ Trần Trọng Kim là sản phẩm của tình thế với hoài
bão bước đầu thực thi thể chế Quân chủ lập hiến đặt nền móng cho mô hình “Dân
chủ Đại nghị” cổ điển về sau, của lớp nhân sĩ tri thức cũ biết lường trước họa
binh đao nên tha thiết nhân nhượng, dung hoà”.
Hơn nửa năm sau, Phạm Hồng Tung đã viết bài “Nội các Trần Trọng
Kim và Cách mạng tháng Tám” (Xưa & Nay, số 361, tháng 8.2010) để bác bỏ những
lý lẽ cho là chưa vững của Mai Khắc Ứng.
Trong bài viết đó, trước khi đưa ra kết luận đánh giá của
riêng mình, tác giả Phạm Hồng Tung đã có công phu sưu tầm-ghi chép khá đầy đủ
những tài liệu đánh giá của người khác, trước hết là tiếng nói của người trong
cuộc (ý nói như của Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh…), tiếp đến ý kiến
của một số sử gia phương Tây và Nhật Bản, rồi đến cách đánh giá của sử gia Việt
Nam, mà dưới đây chỉ xin trích dẫn lại 3 đoạn tiêu biểu phân biệt cho 3 loại
đánh giá (xem Phạm Hồng Tung, sđd., tr. 300-342):
– Khi một người ngoại quốc là Stein Tonnesson hỏi ông Phan
Anh (nguyên Bộ trưởng Nội các Trần Trong Kim) Chính phủ Trần Trọng Kim có phải
là một chính phủ bù nhìn không, thì Phan Anh khẳng định: “Lấy tư cách là thành
viên của Chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt đối
không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới
đi hợp tác với Nhật. Có những người điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng
tôi tham gia chính phủ là để phụng sự. Chính với chính sách ấy mà chúng tôi đã
thành lập chính phủ với khẩu hiệu như vừa nói là: Đuổi cổ bọn Pháp và nắm lấy độc
lập”.
– Ý kiến của chính Stein Tonnesson (tác giả cuốn The
Vietnamese Revolution of 1945, xuất bản năm 1991): “Nói chung, Chính phủ Trần
Trọng Kim không thể bị coi là thân Nhật”.
– Ý kiến của Trần huy Liệu và Trần Văn Giàu. (1) Của Trần
Huy Liệu: “Chính phủ bù nhìn gắn liền vận mạng của nó với phát xít Nhật, đặc biệt
là phát xít Nhật trong lúc giẫy chết. Vì vậy nó ra đời cũng chỉ có chiều hướng
đi xuống, chết yểu và sống nhục”.- (2) Của Trần Văn Giàu: “Nói tóm lại, Chính
phủ Trần Trọng Kim dù là gồm những nhà trí thức tư sản nổi tiếng, vẫn là một
chính phủ bù nhìn của Nhật. Nó biểu lộ không phải tính chất dân tộc và dân chủ
mà biểu lộ tính chất phản dân tộc, phản dân chủ. Vẫn biết có một ít nhân vật
trong đó có ý muốn làm cho nước nhà được giải phóng thực sự, nhưng không thể phủ
nhận rằng sự tổ chức, sự hoạt động của Chính phủ Trần Trọng Kim nhằm cản trở
phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm tranh thủ quần chúng với Mặt
trận Việt Minh; sở dĩ họ không đạt mục đích của họ, không phải vì họ thiếu ý thức
giai cấp và thiếu hoạt động, mà trước hết vì thời gian không ủng hộ họ, vì tình
hình quốc tế bất lợi cho họ, vì hoạt động giỏi của Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt
Minh không cho phép họ”.
Năm 1983, Phạm Khắc Hòe (1901-1995), từng giữ chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng thời Bảo Đại 1945
(sau đó theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp),
cho xuất bản tập hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, đã mô
tả từng hành động, quyết định của Trần Trọng Kim như một kẻ vụng về, cơ hội,
tham quyền cố vị, bất tài và bất lực với những lời lẽ biếm nhẽ, đôi khi còn rất
nặng nề.
Có lẽ vì chịu ảnh hưởng cách giá đánh của các vị tiền bối sử
học-chính trị học cách mạng nêu trên, nên sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 12
(NXB Giáo Dục, ấn bản năm 2001) khi nhắc đến giai đoạn lịch sử trước Cách mạng
Tháng 8 đã mạnh tay viết về Trần Trọng Kim với những lời lẽ không kém phần gay
gắt, nếu không muốn nói còn có phần “lướt” hơn: “Bọn thân Nhật Trần Trọng Kim đứng
ra lập Chính phủ mới, bù nhìn Bảo Đại được khoác danh hiệu “Quốc trưởng” (phải
nói “Hoàng đế” mới đúng-TVC). Bọn thân Nhật muốn dựa vào quan thầy mới để hoạt
động, làm ra vẻ “ái quốc, ái quần” (yêu nước, yêu dân); nhưng chúng nhanh chóng
tỏ ra bất lực (…). Chúng trở thành những tên tay sai ngoan ngoãn để cho chủ mới
là Nhật càng thêm dễ dàng lừa bịp và vơ vét, bóc lột nhân dân ta thậm tệ hơn
(…). Vì vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn, bộ mặt giả nhân giả nghĩa của phát
xít Nhật cũng như bộ mặt tay sai bỉ ổi của bọn bù nhìn thân Nhật đã bị bóc trần.
Nhân dân ta ngày càng thêm căm thù Nhật và chán ghét bọn bù nhìn tay sai của
chúng” (dẫn lại theo Phạm Hồng Tung, tr. 340-341).
Cũng Lịch sử lớp 12, nhưng ở ấn bản năm 2010 (NXB Giáo Dục,
tái bản lần thứ 2), chỉ có một dòng ngắn ngủi về chính phủ Trần Trọng Kim:
“Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang.
Điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến” (tr. 115)
Đến ấn bản mới nhất, Lịch sử Lớp 12 (NXB Giáo Dục, tái bản lần
thứ 5, tháng 3.2013), đoạn viết về Trần Trọng Kim chỉ giảm lại còn: “Chúng [Nhật]
dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ‘Quốc trưởng’” (tr.
112).
Tôi có thói quen khi thấy có vấn đề gì liên quan lịch sử thì
lấy sách giáo khoa xem trước để nắm chắc một số sự kiện căn bản hoặc ý niệm tổng
quát, vì nghĩ rằng đã sách giáo khoa do Bộ Giáo dục-Đào tạo xuất bản thì tất phải
chính xác, đàng hoàng hơn hẳn những loại sách biên khảo lịch sử của tác giả
khác, do nó phải khách quan khoa học, lời lẽ lịch sự, đáng tin cậy, với lượng
kiến thức cần thiết cung cấp cho học sinh được chắt lọc lại từ rất nhiều nguồn
sử liệu khác nhau, trên cơ sở có sự đối chiếu thẩm định, nghiên cứu nghiêm túc.
Nào ngờ, như 3 đoạn vừa dẫn trên cho thấy, tùy theo lần và năm xuất bản, sách Lịch
sử lớp 12 lại lúc vầy lúc khác: có lúc mạt sát Trần Trọng Kim và Nội các của
ông thậm tệ, với lời lẽ hằn học, lúc khác không công kích nữa (chỉ gọi Nhật là
“chúng”) nhưng lại chỉ nói phớt qua một hai dòng.
Vậy là có lúc tôi đã hiểu nhầm về độ tin cậy và tính nghiêm
túc của sách giáo khoa, không dè nó đã được biên soạn một cách rất tùy tiện, thậm
chí sai kiến thức (như chi tiết gọi Bảo Đại năm 1945 là “Quốc trưởng”).
Trở lại câu chuyện, mặc dù đã có kết luận đánh giá trông có
vẻ dung hòa tiến bộ hơn của Phạm Hồng Tung, vấn đề xem chừng vẫn chưa hết hồi
phức tạp, vì vậy mà trong bài “Bàn thêm về Trần Trọng Kim” (Tạp chí Văn Hóa Nghệ
An, 26.11. 2009), GS Vũ Ngọc Khánh đã đặt vấn đề nên có một cuộc hội thảo khoa
học về Trần Trọng Kim vì đã có nhiều ý kiến trao đổi, nhưng nhận định chung
hình như chưa thật thoả đáng.
“Tôi nghĩ rằng vấn đề có thể suy nghĩ và cân nhắc thêm (…).
Nói sang chuyện hoạt động chính trị. Hình như đây là vấn đề được nhiều người
quan tâm hơn và sự nhận định nói chung
là khe khắt hơn. Song những điều đắc thất của Trần Trọng Kim ở chặng cuối đời
này nên được làm rõ”.
Đại khái theo GS Vũ Ngọc Khánh, về việc ra làm thủ tướng,
trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, nếu
không phải Trần Trọng Kim thì phải có con người khác, nhưng lại phải do
người của Nhật đưa ra (như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đình Diệm đều được Nhật và Bảo
Đại nhắc đến), nhưng cuối cùng họ chỉ dùng Trần Trọng Kim. Còn về việc liên hệ
với Nhật Bản, cho đến nay vẫn chưa phát hiện được tài liệu gì, do ông và cả Nhật
cố tình giữ kín nên không ai biết, chỉ thấy ông được Nhật đưa đi trốn rồi đưa về
để đẩy ra làm thủ tướng…. Điều hiển nhiên ông đã là một con bài do Nhật chuẩn bị.
Nhận định về vai trò của chính phủ Trần Trọng Kim, ông Khánh
cho rằng mặc dù dư luận vẫn gọi đây là chính phủ bù nhìn, nhưng nên hiểu cái
danh hiệu này cho có mức độ. Nói bù nhìn là nói theo cách vạch trần chân tướng
để hạ uy thế, có phần không thoả đáng với nhiều thành viên chính phủ đều là người
tốt, có uy tín. Không rõ có ai kín đáo thi hành lệnh của Nhật không, chứ là tay
sai thực thụ thì không rõ mặt (kể cả Trần Văn Chương sau này phục vụ chính quyền
Ngô Đình Diệm).
Về việc làm và luận điệu của Chính phủ, ông Khánh viết: “…tất
nhiên, khi ra đời cũng như khi tuyên bố nọ kia, chính phủ Trần Trọng Kim phải
có những câu như: cảm tạ công ơn Nhật, v..v.. Tôi nghĩ đó chỉ là cách nói khách
sáo …, không nên căn cứ vào những điều đó để đánh giá. Còn việc tha các tù phạm,
nghe nói là những tù cộng sản không được tha [ý chỉ thả những tù nhân không cộng
sản, Phạm Hồng Tung dẫn lại của Trần Văn Giàu từ sách gốc của Devillers xuất bản
năm 1952, nhưng đoạn tha tù phạm, sau này Devillers đã điều chỉnh trong cuốn
Paris-Saigon-Hanoi, sđd, tr. 106-TVC]…, nhưng lúc đó (tháng 5, 6.1945) tôi ở
Vinh thì đây là chuyện có thực. Khi ông bộ trưởng tư pháp Trịnh Đình Thảo ra lệnh
này, nhiều đồng chí bị bắt giam đã được giải phóng. Các ông Nguyễn Duy Trinh,
Lê Tính từ trong Nam về Vinh, có đến trọ ở nhà tôi. Nhiều đồng chí khác được “sổ
lồng” vào dịp này. Tôi còn nhớ là vào lúc đó, chính phủ Trần Trọng Kim có ra lệnh
hoãn nợ để đỡ phần cho nông dân nghèo tại các xã (không biết việc thực thi có
chu đáo không). Ngoài ra có một chương trình giáo dục mới (chương trình Hoàng
Xuân Hãn). Có phong trào ngay lúc đó được gọi là Thanh niên Phan Anh, thực tế
nhiều nơi đã thành tổ chức do Việt Minh lãnh đạo. Nếu là một chính phủ thân Nhật
khác, dễ gì đã có được những hành động tạo điều kiện thuận lợi như vậy”.
Về cá nhân Trần Trọng Kim, tác giả có mấy ý kiến, xin tóm tắt
lại như sau: (a) Ông là người có lòng yêu nước, vẫn giữ được tư cách người trí
thức của dân tộc; (b) Ông bị lôi cuốn vào hoạt động chính trị, vì sự hiểu biết
chính trị của ông không sâu sắc, nên bị người ta dùng làm con bài, mà vẫn tưởng
là họ cho ra đóng góp với dân tộc; (c) Tư tưởng của ông là tư tưởng luân lý
phong kiến, cho đến khi gặp bế tắc, ông vẫn cứ phải loay hoay với lý thuyết của
Khổng Tử (qua câu cuối cùng của ông nói với Phạm Khắc Hoè về việc hành tàng),
do đó bế tắc lại càng bế tắc.
Rồi bài viết đi đến kết thúc bằng một nhận xét có phần xác
đáng: “Còn có một điều khiến chúng ta phải phàn nàn, mà khó lòng thông cảm với
ông. Đó là vào khoảng cuối đời, ông đã tiếp tục gieo mình vào những biến cố
không cần thiết, hoàn toàn bất lợi. Ông không chịu “tàng” như cách nói với Phạm
Khắc Hoè mà lại cố “hành” khi đã thành vô dụng. Không rõ ông hiểu Bảo Đại thế
nào mà còn đi sang Trung Quốc gặp lại Bảo Đại rồi quay lại Sài Gòn, được mời
đóng vai trò chủ đạo cho cuộc vận động của Chính phủ do Bảo Đại làm quốc trưởng,
mặc dầu ông không hoạt động được gì cũng không chỉ đạo ai. Ông vẫn bị lợi dụng
mà không hay. Tôi nghĩ rằng khi ông được đẩy ra làm thủ tướng, rồi lại làm chủ
tịch gì gì đó, thì ông hoàn toàn là một
nạn nhân chứ không có vai trò chủ động gì nữa”.
Quả thật ở giai đoạn cuối đời, tuy luôn miệng than vắn thở
dài, ngán ngẫm thời cuộc và chỉ muốn được an nhàn, nhưng thực tế Trần Trọng Kim
vẫn có vẻ tất bật, chạy vạy vất vả, nhất là từ thời kỳ “tòng vong” theo Bảo Đại
ở Hương Cảng cho đến lúc về Sài gòn dự Quốc dân đại hội năm 1953! Vì hoàn cảnh
phải ra đi, vì bạn bè lôi kéo thúc đẩy (cái này cũng thường dễ mắc phải lắm),
vì còn tham chút danh vọng, hay vì trong tâm khảm ông vẫn còn vương vấn bận rộn
việc đời?
Thậm chí, ngay khi còn đương chức Nội các Tổng trưởng, đi
đâu gặp bạn bè Trần Trọng Kim cũng tâm sự do mình chẳng đặng đừng phải đứng ra
nhận thành lập Nội các, như có lần đã chia sẻ với nhà báo Lãng Nhân khi gặp
nhau tại dinh Thống sứ cũ, trong chuyến ông đi công cán ở Hà Nội để thuyết phục
Tổng tư lịnh Nhật cho lấy lại các thành phố đang nằm trong tay Nhật: “ ‘Ngô bất
đắc dĩ’ mà! Chỉ khi vì gặp vua, thấy là người thông tuệ có thể hợp tác nên tôi
nghĩ trong lúc rối ren, không đành từ chối, nhưng thật tình không biết có làm
nên việc hay không” (sđd., tr. 86). Còn thật bụng ra sao, có lẽ chỉ mình ông hoặc
vợ con ông mới biết.
Cũng có thể ban đầu ông “bất đắc dĩ” thật, hoặc muốn thử tài
kinh bang tế thế theo lý tưởng nhà nho mà không cuồng vọng, nhưng phàm tâm lý
con người, đã ở trong chức vụ cao được tiền hô hậu ủng quen rồi thì khi mất đi cũng
tiếc. Chỉ có khác ít nhiều là với tư tưởng-phong cách sống nhà nho, lại mộ đạo
Phật, ông chắc chắn có phần thanh thản hơn nhiều so với những người khác có
hoàn cảnh tương tự.
Dù sao chăng nữa, về mặt nhân cách đạo đức, chưa phát hiện
có chuyện gì bê bối trong đời tư của ông. Trước sau ông cũng chỉ là một hạng
nho Tây thanh bạch, cuộc sống suốt đời chỉ từ đủ ăn cho đến thiếu thốn, và phần
nhiều thời gian phải ở đậu ở nhờ nhà cửa của bạn bè, thân thuộc. Cả Trần Trọng
Kim lẫn các thành viên trong nội các của ông không có người học kém, đặc biệt
chưa bị mang tiếng gì về chuyện tham ô móc ngoặc, tự tư tự lợi (cũng có thể là
vì chưa tới lúc bị tha hóa quyền lực?). Tất cả họ đều là một đám thư sinh trói
gà không chặt, chỉ có tấm lòng mà thiếu mưu mẹo chính trị, nên không thể đảm
đương việc nước trong khúc quanh lịch sử đoạn trường này của dân tộc.
Đến đây, tôi đã cố gắng trình bày tương đối đầy đủ về nhân vật
lịch sử Trần Trọng Kim cùng Nội các của ông, bằng việc chắp vá, tổng hợp lại từ
một số tài liệu chủ yếu bao gồm những tập hồi ký có được trong tay mà các tác
giả đều là chứng nhân của thời cuộc, với một phần dè dặt thận trọng về tính chủ
quan cũng như về độ chính xác của thể loại hồi ký. Những tài liệu này kể ra
cũng chẳng quý hiếm gì. Nó chỉ hơi khó kiếm đối với một số bạn trẻ, vì có thời
gian, từ nhiều lý do ngoắt ngoéo của lịch sử, chúng đã ít được phổ biến hoặc được
nhắc tới, nhất là đối với khu vực phía Bắc từ sau Cách mạng tháng Tám. Đó là một
trong những lý do khiến tôi nảy ra ý định trình bày lại các sự kiện lịch sử
liên quan một cách tản mạn, trong khi chưa đủ khả năng trình độ viết thành một
chuyên luận có hệ thống, nhằm mục đích để các bạn trẻ ngày nay được biết thêm về
một khúc quanh lịch sử đặc thù đầy đau thương buồn bã của dân tộc, điều mà họ
không thể tìm đọc được trong các sách giáo khoa hiện tại.
Nhắc lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý định đề cao ai
hoặc phê phán ai, chỉ cốt tuần tự trình bày các sự kiện thu thập được qua tài
liệu sách vở. Song vì điều tôi quan tâm hơn cả là muốn qua những câu chuyện quá
khứ, chúng ta ngày nay có thể suy nghiệm được những bài học lịch sử hữu ích gì
để áp dụng cho hiện tại và tương lai, nên trong khi “tản mạn”, tôi cũng có tùy
hứng thỉnh thoảng đưa vào một vài nhận định riêng có tính chủ quan của người viết,
chỉ nhằm gợi ý tham khảo, chứ không có ý muốn người khác phải đồng tình hết với
mình.
Tôi cũng muốn nhân câu chuyện Trần Trọng Kim mà trình bày một
số vấn đề liên quan khoa học lịch sử và việc giảng dạy môn học này trong các
trường học hiện tại. Theo quan niệm đơn giản của tôi, về môn lịch sử, trước nhất
phải tôn trọng sự thật chứ không nên vo tròn bóp méo vì bất cứ lý do gì, và phải
được biên soạn theo đúng phương pháp chuyên ngành, rồi trình bày nó ra bằng một
thứ ngôn ngữ khoa học vừa lịch sự, nhã nhặn vừa chuẩn xác và có tính trung hòa.
Trong các công trình sử học cũng như trong sách giáo khoa về môn lịch sử, nhất
định phải không chứa sự sân hận đối với những gì đã xảy ra trong quá khứ.
Trước đây, nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng cực đoan thiếu
khách quan trong khi trình bày lịch sử cũng như phê phán các nhân vật lịch sử, trong đó có nguyên tắc bất di bất dịch về
tính Đảng, tính khoa học, vốn một thời được coi là “vấn đề trung tâm của phương
pháp luận sử học mác-xít” (xem Phạm Xuân Nam, “Về những vấn đề phương pháp luận
trong công tác sử học của chúng ta mấy chục năm qua”, Sử học Việt Nam trên đường
phát triển, sđd., tr. 246), mà hai năm trước Viện Sử học cùng Hội Sử học đã kịp
nghĩ lại khi họ đề xuất kế hoạch sẽ tổ chức biên soạn một bộ thông sử Việt Nam
mới với nội dung vượt qua được những giới hạn ràng buộc của vấn đề ý thức hệ. Cách triển khai hay là nghệ thuật chủ yếu của
cái phương pháp luận sử học cũ kỹ vừa nói trên là “tự viên kỳ thuyết”, tức
trong khi giải thích các sự kiện-hiện tượng lịch sử, tìm mọi cách vo tròn bóp
méo sao cho phù hợp với hệ quy chiếu lý luận đã định sẵn một cách xơ cứng, kết
quả là cho ra những bài viết hoặc công trình nghiên cứu của những tác giả khác
nhau nhưng đều có luận điệu, cách diễn đạt và thậm chí cả câu chữ cũng gần gần
giống nhau. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng khiến cho môn học Lịch
sử trở nên nhàm chán đối với học sinh các cấp suốt mấy chục năm nay, mà nếu
không giải quyết từ căn bản, sẽ chẳng bao giờ tìm thấy lối ra, cho dù có tổ chức
thêm hàng trăm cuộc hội thảo cũng vậy!
Xem bài “Về những vấn đề phương pháp luận…” của Phạm Xuân
Nam trong cuốn Sử học Việt Nam trên đường phát triển, thấy tác giả có nêu mấy vấn
đề “cần tiếp tục soi sáng” thêm, như “Mối quan hệ giữa nghiên cứu và trình bày
lịch sử”, “Ngôn ngữ sử học”… (sđd., tr. 268). Hiện tôi chưa tìm được tài liệu
nào của nhà sử học Việt Nam viết về ngôn ngữ sử học nên mãi đến nay vẫn còn
chưa hiểu sâu về phong cách của ngôn ngữ sử học. Nhưng dù nó có phải là thứ
ngôn ngữ khoa học đòi hỏi tính chuẩn xác và tính trung lập hay không, tôi vẫn
dám chắc đó tuyệt đối không phải là thứ ngôn ngữ văn chương mạt sát kiểu “đào mồ
cuốc mả” kẻ thù, hoặc giống những bài hịch văn kêu gọi quần chúng nổi loạn, mỗi
khi cần đề cập những nhân vật lịch sử quen gọi “phản diện”, hoặc sự kiện lịch sử
đã đi hẳn vào quá khứ!
Đã có thời gian khá dài, khi khảo cứu văn-sử, người ta đã mạnh
miệng gọi vua Gia Long là “y”, là “hắn”…, thì chưa cần biết vua là người thế
nào, cái lối trình bày lịch sử đưa vào sách vở như vậy chẳng khác nào vô tình
giáo dục cho con người lòng thù hận, và thói trịch thượng đối với tiền nhân,
hoàn toàn không phù hợp với đức tính chung nho nhã, lễ phép, khiêm cung của dân
tộc Việt Nam, và cũng chắc chắn không có lợi cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Vì vậy, tôi rất thích lối nói công tâm nhũn nhặn của nhà sử học Pháp Philippe
Devillers chuyên khảo cứu về lịch sử Việt Nam giai đoạn chiến tranh Việt-Pháp
1945-1954 mà ông thuộc “bên thua cuộc”: “Băn khoăn giữa một bên là ý thức tôn
trọng sự thật và một bên là những tình cảm yêu nước thúc đẩy mình phải đồng tâm
với đồng bào [Pháp], một nhà sử học Pháp làm sao có thể phân tích được một cách
khách quan và sâu sắc một cuộc chiến tranh đã đối lập, từ 1945 đến 1954, hai đất
nước mà với mình đều rất thân yêu, là nước Pháp và nước Việt Nam, nhất là khi
ông ta [tức tác giả Devillers] biết rằng nếu chia phần lầm lỗi ra hai bên thì
phần lớn lầm lỗi lại thuộc về phía chính đồng bào [Pháp] mình” (“Lời tựa”,
sđd., tr. 5).
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105).
2013
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét