Trải qua 1000 năm Bắc thuộc, dù có bị Hán hóa đến đâu, dân
Việt vẫn cứ là dân Việt, không thay đổi. Hơn 80 năm Pháp thuộc, tốc độ Tây hóa ở
Việt Nam nhanh chóng mặt, nhưng dân Việt vẫn cứ là dân Việt, không thay đổi. Vậy
thì tại sao ở trong bối cảnh ngày nay chúng ta lại phải đối mặt với việc mất bản
sắc đến thế và thực ra chúng ta đang thật sự dần mất đi bản sắc. Nhìn lại 60
năm gần đây, ta có thể thấy rằng, liên tiếp những lý tưởng về sự đại đồng tràn
vào Việt Nam, trước là Chủ nghĩa Cộng Sản kiểu Liên Xô, sau là chủ nghĩa Toàn cầu
với xu hướng Toàn cầu Hóa kiểu Hoa Kỳ, quá hấp dẫn, đến mức dân tộc Việt Nam dần
dần quên mất mình là ai.
So với vấn đề Hán hóa hay Tây hóa, vốn đi kèm với việc các
cường quốc áp bức dân ta, vậy nên, chính trong sự áp bức này, những tinh hoa của
dân tộc Việt lại đâm chồi và nở rộ. Nhưng với những lý tưởng đại đồng và toàn cầu,
chúng ta lại không hề có một chút đề phòng, sẵn sàng chấp nhận và nghĩ rằng đó
là cơ hội để thúc đẩy tiến bộ nhân loại. Nhưng chúng ta đã nhầm lẫn, đại đồng
và toàn cầu, không có nghĩa rằng chúng ta sẽ vứt bỏ hoàn toàn bản chất của mình
để tự biến mình theo khuôn mẫu nào đó. Đây là một nhầm lẫn đáng nực cười, bởi mọi
lý tưởng tốt đẹp thật sự không yêu cầu chúng ta phải vứt bỏ bản thân mình mà tạo
ra một cơ hội cho mỗi người có thể đóng góp cho tiến bộ nhân loại bằng chính khả
năng và lợi thế thật sự của mình. Nhưng
nếu chúng ta đánh mất đi bản thân mình, thì làm sao chúng ta biết được đâu là lợi
thế?
Người Việt ta không có thói quen đặt câu hỏi “Ta là ai?”.
Khi đối mặt với Hán hóa và Pháp hóa, người Việt lại đang sống trong chính bản
chất của mình một cách cách tự nhiên. Nhưng sau một thời gian chối bỏ bản chất
của mình không thành, chúng ta lại chuyển sang sự hoang mang, và một trạng thái
tâm lý mới xuất hiện: Phủ nhận những đặc tính của người Việt và coi rằng những
đặc tính đó khiến đất nước ta lỗi thời, lạc hậu và kém cỏi, khiến đất nước ta
trở thành một đất nước man di cần được giáo hóa. Và những chiến lược cải tạo
dân Việt bắt chước kiểu mẫu con người của phương Tây (được coi là văn minh hơn
nhờ vào tiến bộ về khoa học kỹ thuật) được thực hiện bởi chính những người Việt
tự vỗ ngực xưng mình là cấp tiến. Chỉ đến khi nhiều mô hình thất bại, chúng ta
mới thấy có gì đó không ổn, mới bắt đầu đi tìm bản tính người Việt, nhưng chúng
ta đã quên mất nó, chỉ còn lưu lại những ấn tượng về “người Việt xấu xí”. Hậu
quả của việc này khiến cho chúng ta lựa chọn sai các mô hình, tính toán sai các
chính sách, dự đoán sai về xu hướng xã hội và hoàn toàn mất tự chủ trong đường
lối xây dựng đất nước và phát triển dân tộc, hôm nay theo hướng này, mai theo
hướng khác mà vẫn không có hướng nào là đúng đắn.
Đã đến lúc chúng ta xác định xem bản tính của chúng ta là
gì, dân tộc chúng ta có sứ mệnh như thế nào với nhân loại. Bởi nếu không có sứ
mệnh ấy, có thể chúng ta đã trở thành một bộ phận của Trung Quốc từ cách đây
2000 năm rồi, chứ không phải còn có cơ hội ngồi đây và chê bai dân Việt.
Đi tìm bản tính người Việt
Bản tính của một dân tộc không phải văn hóa của một dân tộc,
nó ở một tầng sâu hơn thế. Levi Strauss cho rằng “văn hóa là tất cả những gì
chúng ta có được từ truyền thống bên ngoài… là toàn bộ những tập tục, tín ngưỡng,
những thiết chế như nghệ thuật, pháp luật, tôn giáo, các kỹ thuật trong đời sống
vật chất, tóm lại, đó là tất cả những thói quen hoặc kỹ năng mà con người học
được với tư cách là một thành viên trong xã hội.”. Còn N. Berdyaev khẳng định
“Chúng ta nói “văn hóa tinh thần” chứ không nói “văn minh tinh thần”. Văn minh
có nghĩa là một thang bậc lớn hơn nữa của khách thể hóa và xã hội hóa, còn văn
hóa thì gắn nhiều hơn với bản diện cá nhân và tinh thần”. Hai quan điểm trên
hoàn toàn hợp lý, nhưng quan điểm định nghĩa của Levi Strauss chỉ ta thấy cái bề
mặt của văn hóa, còn quan điểm của N.Berdyaev dẫn ta đi vào một tầng sâu hơn,
tìm về “bản diện cá nhân và tinh thần”, mà bài viết này gọi tắt là “bản tính
dân tộc”.
Văn hóa của một dân tộc được quyết định bởi bản tính của dân
tộc ấy. Vậy bản tính dân tộc gồm những khía cạnh nào và do những nhân tố nào
quyết định? Hãy thử soi chiếu vào cá nhân của một người, bản tính của chúng ta
thể hiện ở những khía cạnh: tư duy, cảm xúc và tham vọng. Một dân tộc cũng vậy,
bởi dân tộc là tập hợp của rất nhiều cá nhân có chung một nền văn hóa, nên hẳn
rằng có những bản tính chung, những cách thức tư duy chung, trạng thái cảm xúc
chung và những tham vọng chung. Nhưng điều gì hình thành nên bản tính ấy? Đó
chính là điều kiện sống và khả năng sinh tồn của một dân tộc trước mọi biến thiên
của tự nhiên cũng như thời đại.
Nguồn gốc xuất xứ của dân Việt khá phức tạp do quá trình di
dân liên tục trong lịch sử, bao gồm nhiều tộc Việt khác nhau. Nhưng cho dù di
dân từ đâu đến, dù là người Chăm bị cúng nạp hay người Hán xuống đây sinh sống,
ở lẫn với người Việt, thì họ cũng phải chịu chung những biến cố với người Việt
và dần dần, cảm xúc, tư duy thay đổi theo hướng Việt hóa. Thế nên, một dòng họ
dù xuất phát từ đâu, khi ở lâu đời với người Việt cũng trở thành một bộ phận của
dân tộc Việt. Màu sắc bên ngoài có thể khác nhau, nhưng các trạng thái tâm lý
có nhiều điểm tương đồng.
Người Việt định cư ở vùng đồng bằng sông Hồng, vốn là dải đồng
bằng nhỏ hẹp, nhiều vùng chiêm trũng, không bằng phẳng và bị chia cắt.Đây chính
là nguyên nhân dẫn đến tâm lý tiểu nông, tức là lối tư duy ngắn hạn và thực dụng.
Người nông dân xưa chỉ quen cày cuốc trên mảnh đất nhỏ của mình, vừa đủ ăn, ít
tham vọng mở rộng và phát triển. Không giống như ở châu Âu và Mỹ vốn là những đồng
cỏ rộng, yêu cầu phát triển thiết bị kỹ thuật trở thành cấp thiết để có thể
canh tác rộng hơn. Mặc dù ruộng nhỏ hẹp, nhưng đất đai phù sa sông Hồng lại màu
mỡ khiến cho người nông dân có thể thực hiện thâm canh và xen canh. Lâu dần,
hình thành cho người nông dân Việt khả năng tư duy tích hợp, có nghĩa là kết hợp
thực hiện nhiều nhân tố khác nhau vào làm một để đạt được mục đích mình mong muốn. Chỉ đến khi di dân vào miền Nam với đồng bằng
sông Cửu Long rộng lớn, cách tư duy này trở nên không cần thiết nữa. Đó là lý
do tại sao người miền Nam dễ dàng tiếp thu các yếu tố phương Tây hơn người miền
Bắc.
Giao thương buôn bán thời cổ ở Việt Nam chủ yếu bằng thuyền,
do các vùng của đồng bằng Sông Hồng bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt.
Việc đi lại bằng thuyền dậy cho người Việt bài học: nên biết xuôi chiều. Các cụ
xưa có câu chúc “xuôi chèo mát mái” có lẽ là ẩn chứa kinh nghiệm dân gian này.
Bởi thế người Việt luôn hướng tới sự đồng thuận, khi mọi thứ đều thuận thì qua
đó mượn lực mà đẩy lên. Trong lịch sử không có nhiều người có xu hướng đột phá
hay đi ngược dòng, bởi tận sâu bên trong, ai cũng hiểu rằng “bơi ngược dòng thì
khả năng sẽ bị nước nhấn chìm”.
Khu vực địa lý chúng ta đang sinh sống là một khu vực đầy biến
động, giông bão triền miên, lại liên tục
bị phương Bắc xâm lược, một nỗi lo thường trực luôn ám ảnh dân tộc ta: nỗi lo
sinh tồn. Đối mặt với quá nhiều biến thiên, người Việt không tội gì giữ gìn những
thứ cồng kềnh và không cần thiết, khi thời đại thay đổi, những gì không còn có
lợi cho sự sinh tồn nữa thì chúng ta sẵn sàng vứt bỏ. Bởi thế người ta nói người
Việt hay thay đổi, hôm nay thế này ngày mai thế khác, nhưng nhìn một cách tích
cực, đây là khả năng buông bỏ, không bám
chấp nằm trong tận bản chất mà các nước phương Tây hay Trung Quốc còn phải học
mà khó thực hiện được.
Hơn nữa, việc đối mặt với nhiều nguy cơ đe dọa, cộng thêm
tâm lý xuôi chiều, người Việt luôn đề cao sự đồng thuận chung. Thay vì cố gắng
thuyết phục hoặc tìm mọi mưu kế để đạt được mục đích, người Việt với nhau luôn
có cách giải quyết mỗi bên nhường nhau một tí và cuối cùng đi đến kết cả là
“hòa cả làng”. Ở thời Lý Trần, hiện tượng Tam giáo đồng nguyên là một biểu hiện
của tâm lý “hòa cả làng” này. Thay vì xung đột giữa các tôn giáo giống như Châu
Âu hay Ấn Độ, những người tu hành và tín đồ thuộc Phật giáo, Đạo giáo và Nho
giáo ở Đại Việt thời đó chọn lựa phương án tìm ra điểmchung của các tôn giáo
này và cùng nhau tạo ảnh hưởng lên tâm thức người Việt, và kể cả người nào chịu
ảnh hưởng cùng lúc cả 3 tôn giáo cũng không thấy vấn đề gì.
Trạng thái cảm xúc ưa thích nhất của người Việt là cười vui.
Không phải những cơn hưng phấn đầy kích thích của kẻ chinh phục, mà là trạng
thái cười vui an lạc. Cho dù trong bất cứ trạng thái nào, người Việt cũng tìm
cách để cười, dù cười để châm biếm hay để nghịch ngợm thì tựu chung lại vẫn là
nụ cười. Đó là lý do tại sao người Việt thích truyện cười đến thế, thích tấu
hài đến thế và tại sao hay lê la tán chuyện phiếm ở quán trà, quán rượu. Vui cười
giúp người Việt yên tâm chờ đợi, ẩn mình, kiên trì đối mặt với khó khăn.
Với tình trạng sống như vậy, ta có thể thấy rằng người Việt
không có tham vọng gì lớn lao, chỉ cần một cuộc sống an nhàn, no đủ. Mọi mong
muốn khám phá, mở rộng lãnh thổ cũng chỉ vì dân số tăng và cần giải quyết vấn đề
đất ở cũng như lương thực, thực phẩm. Hiểu biết về vũ trụ và thế giới cũng chỉ
để ứng dụng thiết thực vào cuộc sống, như anh nông dân xưa “trông trời, trông đất,
trông mây” cũng chỉ để có một vụ mùa bội thu. Những khám phá thỏa mãn sự hiểu
biết của bản thân thuần túy có vẻ như là một điều xa lạ với người Việt.
Tất cả các cách thức tư duy và cảm xúc đó vẫn còn tồn tại đến
ngày nay dù cho chiến lược “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” không thích hợp chút
nào với các đặc tính của người Việt. “Công nghiệp hóa” có thể dễ dàng thực hiện
ở miền Nam, vì “Công nghiệp hóa” là sử dụng máy móc tạo ra các sản phẩm hàng loạt
và đạt cùng tiêu chuẩn, rất phù hợp với người dân đồng bằng Nam Bộ đã quen với
việc thu hoạch những sản lượng lớn và nhanh chóng. Người dân Bắc không có nhu cầu
sản lượng lớn (và thực ra cũng không quá cần), cái họ cần là chất lượng. Thay
vì chất lượng đồng đều, sản phẩm miền Bắc đưa ra thường hoặc cực tốt hoặc cực
kém. Và nếu áp dụng công nghiệp hóa vào miền Bắc thì từ trước đến nay thường dẫn
đến kém đồng đều nhiều hơn là tốt đồng đều. Có lẽ không nên lan man về chi tiết
này, tôi chỉ muốn nói rằng các đặc tính của người Việt bị dè bỉu nặng nề nhất
chính bởi nó rất khó thích nghi với “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nhưng, vấn
đề đặt ra là, “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” có phải con đường duy nhất để
phát triển đất nước?
Thời đại mới và những lợi thế
Từ khi có Internet, thế giới đã thay đổi rất nhiều. Lưu lượng
và số lượng thông tin khổng lồ đã tạo nên kỷ nguyên thông tin, khi thông tin là
quyền lực, mà một luồng thông tin đưa ra có thể sẽ tạo ra hiệu ứng domino. Hệ
thống quyền lực trên thế giới trở nên lung lay, biến động xảy ra liên tục, các
mô hình cũ không còn hiệu quả. Nhân loại đang phải đối mặt với một thế giới
hoàn toàn bất định và không thể dự đoán. Điều này hoàn toàn trái ngược với thế
kỷ 19-20, khi sản xuất công nghiệp là tối quan trọng. Việc sản xuất công nghiệp
tầm cỡ lớn đòi hỏi một mô hình và quy trình chặt chẽ, tức là cần các thiết chế
vững chắc và lâu dài. Việc thay đổi thiết chế sẽ tạo ra sự thay đổi hàng loạt
trong kinh tế và xã hội. Dù cho có chiến tranh, thì con người ở thế giới hiện đại
vẫn ở trong một thế giới ổn định, bởi những biến cố diễn ra khá chậm và cơ cấu
xã hội cũng như nhận thức đều được cấu trúc gọn gàng. Thật không dễ dàng gì cho
những quốc gia hiện đại đối mặt với thế giới bất định của thời đại mới, nhưng
đó lại là cơ hội cho chúng ta – một dân tộc đã quen với sự bất định.
Bản tính hay thay đổi giúp chúng ta không bị bám víu quá nhiều
những thứ không cần thiết. Khả năng tích hợp giúp chúng ta luôn cởi mở học tập
cái mới mà không bị bất cứ định kiến nào. Với một thế giới bất định, việc con
người phải luôn tiếp thu và thích ứng với cái mới lại trở thành một nhu cầu cấp
thiết. Hơn thế nữa, do lưu lượng thông tin trao đổi liên tục, dần dần, các lĩnh
vực không còn giữ nguyên vị trí của mình nữa mà bắt đầu tạo ra thế liên ngành.
Tức là không còn dạng “một nghề cho chín” nữa, bởi một nghề có thể sẽ không
giúp chúng ta giải quyết một vấn đề nào đó, mà cần sự liên kết của “chín nghề”
(nói một cách hình ảnh). Cụ thể hơn, khi một người có kiến thức của nhiều mảng
khác nhau lại có thể đưa ra giải pháp hiệu quả và thiết thực hơn là chỉ bằng một
chuyên ngành.
Thế giới đã qua giai đoạn khám phá: khám phá vũ trụ, khám
phá lòng đại dương, khám phá rừng già… những khám phá ấy vô cùng quan trọng, thế
nhưng giờ đây loài người phải đối mặt với những nguy cơ sát sườn hơn như biến đổi
khí hậu, thiếu năng lượng và thiếu lương thực… Những thời điểm như thế này, lối
tư duy thực dụng của người Việt ta lại trở thành lợi thế. Không thể nhập nhằng
giữa mong muốn khám phá của bản thân để thể hiện cái tôi và việc hi sinh cái
tôi để giải quyết khó khăn của cộng đồng chung được. Rất hiếm khi hai cái đó đi
đôi với nhau. Chúng ta không phát minh ra bom nguyên tử hay máy tính, nhưng nếu
bạn tìm hiểu kỹ lịch sử khoa học, bạn sẽ biết rằng Việt Nam có 1 phát minh vô
cùng quan trọng đã giải quyết được cốt lõi của nạn thiếu lương thực thế kỷ 20,
đó là giống lúa lùn của giáo sư Lương Đình Của, đã tạo ra cuộc Cách mạng Xanh nổi
tiếng.
Khi thế giới cổ vũ đa nguyên, mà có muốn không đa nguyên
cũng không được, do tốc độ giao thương buôn bán và truyền tải thông tin nhanh
chóng, khả năng đồng thuận và tích hợp của người Việt trở thành yếu tố cần thiết
để tạo ra không khí hòa bình trong đất nước cũng như với các nước khác trên thế
giới.
Ở trên mới chỉ là những
nét phác thảo qua về bản tính người Việt, để tìm hiểu sâu hơn cần các chuyên
gia và các học giả có bề dầy kinh nghiệm cũng như vốn sống nhiều hơn tôi. Tuy
nhiên, tôi tin rằng từ tất cả những điều đó, nếu suy tưởng về một nước Việt Nam
được xây dựng dựa trên các đặc tính của dân tộc, ta có thể thấy rằng không phải
là không thể. Đó là dĩ nhiên, người Việt phải được giải phóng hoàn toàn bản
tính của mình, không để bị nỗi sợ trước sức mạnh quân sự, kinh tế và khoa học kỹ
thuật của các cường quốc làm cho mờ mắt. Khi nhìn nhận đúng bản tính của mình,
nhìn nhận đúng xu hướng phát triển của thời đại, chúng ta sẽ biết chủ động lựa chọn cho mình những gì cần thiết để dân tộc
trường tồn, đất nước phát triển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét