LỜI TÁC GIẢ
Sau 30/4/1975, người ta đặt tiêu chuẩn “Yêu nước là yêu Chủ
nghĩa Xã hội” (CNXH), tôi chỉ đáp ứng được một trong hai yêu cầu ấy nên vội chạy. Đối với CNXH, tôi đã chạm trán với nó ít nhất cũng hiệp đầu
chớ không phải chạy khi vừa thấy mặt nó – tức là không phải chạy mặt.
Tôi chạy nó (CNXH) vì sự quái dị, tính quái ác và phản dân
chủ của nó.
“Yêu nước là yêu CNXH” – một sự gán ghép chết người. Không
phải vậy sao? – Nếu không yêu CNXH vô hình trung là không yêu nước chớ gì?
Nhưng, nếu yêu thêm CNXH thì đất nước, dân tộc nầy tránh sao khỏi tang hoang
cùng khổ?! Thôi thì thà tôi đành mang danh không yêu nước để khỏi phải góp phần
gây tang tóc, đau thương cho đất nước và dân tộc.
Nhờ có tiếp cận, tôi sẽ kể đúng nhưng không thể đủ về sự “diễu
võ vươn oai” của nó ở Nam Việt Nam.
Muốn biết tôi là ai để chủi rủa… hay tranh luận, hãy xem lai
lịch của tôi ghi rõ ở cuối bài viết nầy.
1- Thống nhất đất nước, chuyển giai đoạn cách mạng
Ai sống ở Việt Nam (VN) thời 1940-1975 đều nghe nói đến cuộc
Cách mạng “Dân tộc Dân chủ” (DTDC) do Hồ Chí Minh phát động chống xâm lược Pháp
và can thiệp Mỹ. Cuộc Cách mạng DTDC hàm chứa 2 nội dung: Dân tộc là loại ngoại
xâm, Dân chủ là xây dựng Nhà nước “Dân chủ Pháp quyền” của dân, do dân, vì dân.
12 giờ 30/4/1975, coi như đã hoàn thành vế 1 (DT). Lẽ ra phải tiếp tục thực hiện
vế 2 (DC) để hoàn thành trọn vẹn cuộc Cách mạng DTDC như đã thệ ước với nhân
dân. Nhưng sau 30/4/1975, các vị lãnh đạo Đảng Lao Động VN và Chính phủ Việt
nam Dân chủ Cộng hòa “bỏ bót” đổ xô vào Nam VN để thị sát và bàn việc thống nhứt
đất nước.
Ai cũng ngỡ rằng, việc thống nhất đất nước sẽ thực hiện dân
chủ trên tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, không ngờ Đảng Lao Động VN áp đặt
thống nhứt theo nội dung nhứt thống:
– Cho mình là người thắng cuộc, cấp bách tiến hành “Cải tạo
Ngụy quân, Ngụy quyền” với tên gọi X.1: Gọi tất cả Sĩ quan, Công chức thuộc Việt
Nam Cộng hòa, khoảng nửa triệu người, còn ở lại VN ra trình diện rồi đưa vào
các trại cải tạo – cải tạo thời gian ngắn hay dài tùy theo cấp chức. Việc làm nầy
gây ngỡ ngàng không những đối với những người “thua cuộc”, vì về cơ bản, nó
trái với chính sách “Hòa giải Hòa hợp Dân tộc” do Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam công bố vào những tháng cuối cuộc chiến. Phải nói, nhờ chính sách Hòa
giải Hòa hợp Dân tộc mà Tổng thống Dương Văn Minh và nhiều vị có thiện ý hòa
bình trong Chính quyền và Quân đội phía VNCH làm cơ sở chiêu hòa đối với thuộc
hạ của mình, tháo được ngòi nổ, kết thúc cuộc chiến êm đẹp, trọn vẹn, cả 2 bên
tham chiến đều thở phào nhẹ nhõm, chấm dứt cảnh huynh đệ tương tàn.
Chủ trương cải tạo Ngụy quân, Ngụy quyền khiến người ta cảm
thấy như có sự kiêu binh, ỷ thế cậy quyền, bội ước, tạo căng thẳng, chuốc oán
không cần thiết.
Tuyên bố đã hoàn thành cuộc Cách mạng DTDC, chuyển sang Cách
mạng “Xã hôi Chủ nghĩa” (XHCN) trên toàn cõi VN – không đá động gì đến vế 2
(DC).
– Lẽ ra, phải tổ chức rình rang việc hiệp thương thống nhứt
đất nuốc, đàng nầy, người ta âm thầm phủ định không thương tiếc những tổ chức
Cách mạng vang danh một thời ở miền Nam như: Chính phủ“Cộng hòa Miền Nam” do kiến
trúc sư Huỳnh Tấn Phát lãnh đạo; “Măt Trận Dân tộc Giải Miền Nam” do luật sư
Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo; “Mặt trận Liên minh các Dân tộc vì hoà bình” do luật
sư Trịnh Đình Thảo lãnh đạo. Đồng thời phủ định lá cờ nửa đỏ nửa xanh, có ngôi
sao vàng 5 cánh ở giữa, một biểu tượng cho các tổ chức kháng chiến ở miền Nam.
Những nhân sĩ, trí thức trong 3 tổ chức vừa kể coi như “hết hạn sử dụng”, tạm
thời giao cho họ những chức vụ hư danh, chờ sắp xếp nghỉ hưu. Họ bị cướp công,
bị khinh thường, bị bạc đãi, lâm vào cảnh như những con nai vàng ngơ ngác trên
hoang mạc.
Trước thực trạng, một số cán bộ miền Nam lén rỉ tai nhau: “Nếu
nói Trung quốc là Đại Hán thì Miền Bắc VN là Tiểu Hán”.
– Sáp nhập gần nửa triệu đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng
Miền Nam vào Đảng Lao động VN.
– Để độc đảng, độc tôn…, Đảng CS VN “thuyết phục” 2 chiến hữu
là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội “tự nguyện” giaỉ tán, được xem như cái chết tự
chọn.
– Đổi tên Đảng, từ Đảng Lao động VN thành Đảng Cộng sản VN.
– Sáp nhập Đoàn Thanh niên Cách mạng Miền Nam vào Đoàn Thanh
niên Cộng sản VN.
– Sáp nhập Quân Giải phóng Miền Nam vào Quân đội Nhân Dân
VN.
– Sáp nhập Ban và lực lượng An ninh Miền Nam vào Công an
Nhân dân VN.
– Ồ ạt đưa cán bộ miền Bắc vào “chi viện” cho các tỉnh miền
Nam xem như những cố vấn.
– Cho sĩ quan Quân đội gốc Miền Nam ra quân, thay vao đó là
những sĩ quan miền Bắc. “Tăng viện” Công an, Cảnh sát miền Bắc cho các thành phố
lớn ở miền Nam.
– Đổi tên nước, từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa VN.
– Đảng CSVN tự cơ cấu nhân sự rồi cổ võ nhân dân bầu ra Quốc
hội nước Công hòa XHCN VN – coi như cơ quan Lập pháp rồi từ đó cử ra Hành pháp
và Tư pháp cấp Trung ương. Tiếp theo, cũng do Đảng CS VN cơ cấu nhân sự, tổ chức
cho dân bầu ra các Hội đồng Nhân dân, rồi cũng từ các Hội đồng ấy cử ra các Ủy
ban Nhân dân các cấp ở địa phương và cơ sở. Thế là Đảng CS VN đã hình thành bộ
máy Chính quyền Chuyên chính Vô sản từ Trung ương cho đến cơ sở, đó là cánh tay
nối dài của Đảng CS VN.
– Song song với bộ máy Chính quyền Chuyên chính Vô sản, Đảng
CS VN còn tổ chức riêng cho mình bộ máy gồm: Ban Tuyên huấn, Ban Tổ chức, Ban
Kiểm tra, Ban Khoa giáo, Ban Dân vận, Ban Nội Chính, Ban Kinh tế Tài
Chính..v.v… Đồng thời, Đảng CS VN cũng hình thành cho riêng mình hệ thống Trường
Đảng và hệ thống Báo chí Đảng từ Trung ương cho tới các Địa phương. Những Ban bệ
và những phương tiện nầy, ngoài giám sát bộ máy Chính quyền, phải đảm bảo toàn
xã hội đồng thuận với Đảng về ý chí và hành động.
– Hình thành và hoàn thiện từng bước các tổ chức quần chúng
của Đảng do Nhà nước trả lương như: Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Phụ nữ, Thanh
niên…, được xem như những Bộ Tư lịnh binh chủng.
– Quân đội và Công an khi thành lập đã xác định trách nhiệm
“Trung với nước, hiếu với dân”, nay Đảng CS VN bảo đổi lại “Trung với Đảng, hiếu
với dân”.
– Lễ tục hàng năm, hễ Tết đến, chữ “Mừng Xuân” xuất hiện ở
khắp nơi, giờ đây, Đảng CS VN chỉ đạo trên toàn cõi VN phải thêm 2 từ nữa “Mừng
Đảng, Mừng xuân”.
Nếu chưa quen hãy tập cho quen: gọi “Đảng ta” cho gọn, gọi Đảng
CS VN chi cho dài dòng.
Đưa nội dung “Đảng CS VN là Đảng duy nhứt lãnh đạo Nhà nước
và Xã hội… vào điều 4 Hiến pháp 1980.
– Đảng CS VN đưa ra cơ chế chính trị bao trùm (cơ chế mẹ) “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”.
Đảng CS VN đề ra tiêu chuẩn “Yêu nước là yêu CNXH” – Một sự
gán ghép chết người. Không phải vậy sao? – Nếu ai không yêu CNXH là người ấy
không yêu nước chớ còn gì nữa?! Nếu không yêu nước vô hình trung là phản nước,
là kẻ thù…!.
Thế là Đảng CS VN, chỉ trong thời gian ngắn, đã tạo cho mình
thế đứng thượng phong, độc tôn, toàn trị. Với cánh tay nối dài: Có bộ máy chính
quyền Chuyên chính Vô sản; Có các Ban bệ của Đảng được tổ chức song trùng với
Ban bộ của chính quyền; Có Mặt trận và cac Đoàn thể quần chúng; Có Quân đội và
Công an hùng mạnh, một lòng một dạ trung với Đảng; Có hàng triệu Đoàn viên Cộng
sản là những “Ấu chúa”, làm lực lượng hậu bị cho Đảng. v.v… Rõ ràng, Đảng CS VN
đã bày binh bố trận không còn kẽ hở?! Có lẽ, Đảng CS VN căn cứ vào thế trận vững
như bàn thạch, tự sướng, tung ra câu “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn
năm”.
2 – Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
“Để đuổi kịp miền Bắc”, năm 1976, Đảng CS VN chủ trương cả
miền Nam tiến hành cải tạo XHCN, chuyển nền kinh tế thị trường ở miền Nam sang
kinh tế XHCN. Đảng CS VN không dùng 2 từ tước đoạt mà dùng cụm từ “Công hữu hóa
và tập thể hóa về tư liệu sản xuất” – Giải thích: Tất cả những gì thuộc đối tượng
để người lao động tác động vào tạo ra của cải vật chất… được xem là tư liệu sản
xuất (TLSX), chẳng hạn như nhà máy, hầm mỏ, ruộng đất… và những cơ sở dịch vụ
khác.
Cuộc cải tạo XHCN diễn ra theo trình tự:
Đánh Tư sản mại bản: Bao gồm những nhà Tư sản kinh doanh có
dinh líu với nước ngoài và những nhà Tư sản dính hoặc dựa chế độ cũ (Việt Nam Cộng
hòa).
Sau bước điều tra lập danh sách, mở chiến dịch mang tên X.2,
bất thần, đồng loạt đột nhập các mục tiêu, kiểm kê, tịch thu cả nhà lẫn tài sản
của họ, gây hoang mang, hỗn loạn. Tài sản tịch thu “đổ tháo” rất khó kiểm tra.
Vàng mà cho phép được ghi kim loại màu vàng, nên vàng thật cũng có thể đổi
thành vàng giả – miễn màu vàng là được.
Đoàn tham gia chiến dịch X.2 ở Sài gòn, khi nghỉ trưa, một
người nói: “Kỳ nầy đánh đổ Tư sản thật rồi”. Một cán bộ kỳ cựu đỡ lời “Không,
đánh đổi Tư sản! ”.
Cải tạo Công và Thương nghiệp: Các cơ sở Công, thương nghiệp,
dịch vụ… hoặc hiến cho Nhà nước hoặc vào làm ăn tập thể hoặc ngưng hoạt động.
Không bao lâu, bằng cách nầy hay cách nọ, nếu không thuộc về
Quốc doanh hay tập thể thì đều phải đóng cửa. Chỉ thời gian ngắn, Quốc doanh và
Tập thể chiếm toàn bộ thị phần. Tư nhân nếu còn chỉ hoạt động chui, bắt được là
tới số.
Người Việt gốc Hoa ở Sài gòn, nhìn thực tế thấy sao đó, nói:
“Sợ Cộng sản không ăn, chớ họ chịu ăn thì không có gì phải sợ”. Thế là tư nhân
hành nghề dịch vụ nhỏ lai rai “lọt lưới”.
Cải tạo Nông nghiệp: Khi va vào như vướng phải khối bầy nhầy,
mới thấm thía câu “nhứt hậu hôn, nhì điền thổ”.
Cùng một thời điểm, triển khai chủ trương cải tạo Nông nghiệp
trên toàn cõi Nam VN (từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau). Nhưng Trung ương chọn tỉnh
Tiền Giang làm trước 1 bước. Tỉnh Tiền Giang chọn xã Tân Hội – xã Anh hùng
trong chiến tranh, làm Hợp Tác Xã (HTX) thí điểm của tỉnh. Cách tiến hành theo
mẫu miền Bắc.
Nông dân ở xã Tân Hội nầy, hầu như ai cũng có công ít nhiều
với Cách mạng. Khi đụng vào ruộng đất của họ, họ chẳng sợ gì ai, phản ứng không
chừa cặn.
Ngoài cố vấn từ miền Bắc kè bên, cán bộ tỉnh, huyện đều là
võ tướng, văn tướng quầng như trâu đạp lúa mà chẳng ăn thua. Sau “hội chẩn”, Tỉnh
ủy Tiền Giang quyết định dời thí điểm đến ấp Phú Quới, xã Yên Luông, huyện Gò
Công – Vùng trọng điểm Bình định của Việt Nam Cộng hòa trước đây, giao cho tôi
trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Có lẽ Tỉnh ủy nghĩ rằng, dân vùng địch hậu họ sợ,
sẽ ngoan ngoãn vâng theo. Chẳng biết có phải do họ sợ không, vận động họ đưa đất
vào HTX nông nghiệp làm ăn tập thể không mấy khó, nhưng với lý nầy, cớ nọ, họ
lao động chiếu lệ, sau một mùa vụ cũng đổ vỡ.
Gò Công ngưng làm HTX nông nghiệp, tiến hành làm đại trà Tổ
Đoàn Kết Sản xuất Nông nghiệp, ổn định được đời sống nông dân, đủ sản phẩm nông
nghiệp giao nộp cho Nhà nước theo qui định. Thấy huyện Gò Công vùng đất nhiểm mặn
mà “ăn nên làm ra”, ông Võ văn Kiệt, Bí thư đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đến
Gò Công đến tham quan, ông hỏi tôi: “Đoàn kết sản xuất là làm thế nào?”. Tôi trà
lời: “Thì củng bắt chước các anh làm Vần Đổi Công thời kháng Pháp”. Ông Kiệt vỗ
vai tôi nói: “Thì ra…”.
Có lẽ để nung các địa phương khác, tỉnh Tiền Giang làm HTX
nông nghiệp chẳng ra hồn gì, thế mà Trung ương chỉ đạo tỉnh Tiền Giang mở Đại hội
công bố hoàn thành về cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp. Khách mời gồm những đoàn
đại biểu các Tỉnh, Thành thuộc khu vực phía Nam, có Báo giới, Văn giới và 6 Ủy
viên Trung ương Đảng CS VN đến tụ hội. Làm chẳng ra đâu, nhưng tổng kết nghe
cũng khá, từng hồi từng chập pháo tay nổ giòn. Do “sinh non”, những “đứa con”
nào ra trước chết trước…, không lâu sau, chúng chết phủi tay.
Có thể nói, trong chiến tranh Nông dân nhiệt tình đi theo Đảng
bao nhiêu thì giờ đây họ nhiệt tình chống lại chủ trương Hợp tác hóa nông nghiệp
của Đảng bấy nhiêu – từng nơi, từng lúc, họ phản ứng gần như tử thủ, thí mạng
cùi giữ đất như người điên loạn.
Có lẽ thấy không ổn, Đảng CS VN xuống thang, chủ trương
khoán sản phẩm trong nông nghiệp, có tên là “khoán 100” – có nghĩa là trả 100%
đất lại cho xã viên, rồi căn cứ chất lượng đất, giao khoán sản phẩm trên đầu mẫu
(ha)- có lẽ vừa để xả căng, vừa khắc phục nạn thiếu lương thực trầm trọng.
Ấy thế, lúc bấy giờ, ông Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị,
trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, còn nói trên diễn đàn: “Khoán sản phẩm
trong nông nghiệp là bước thụt lùi cần thiết”. Khi nghe ông Thọ nói thế, tôi
liên tưởng đến vở “Tiếng Trống Mê Linh”, lúc tướng Tàu thách thi bắn tên, các nữ
tướng hăng hái vào cuộc thi. Trưng Trắc nhắc khéo các nữ tướng: “Con Hổ trước
khi vồ mồi nó thu hình lại”. Vậy có phải ý ông Thọ nói lùi để tiến bạo hơn chớ
không phải lùi luôn?. Nếu vậy, ông Thọ ngầm nhắc nhở mọi người kiên định lập
trường XHCN chớ gi?.
Nói khoán sản phẩm chớ khoán cái nỗi gì, sản xuất nông nghiệp
bao giờ cũng phụ thuộc ngoại cảnh như thời tiết, sâu rầy chẳng hạn, kiểm tra sản
lượng được giao chi cho mất công, nếu họ làm không đạt sản lượng theo giao kèo,
bằng lý nầy cớ nọ, họ đổ lỗi khách quan thì rầy rà hay phạt vạ gì họ được?, chỉ
còn cách thu mua sản phẩm nông nghiệp, nhất là 2 mặt hàng Lúa và Heo. Lúa thì
qui định để laị cho mỗi khẩu nông nghiệp 15 giạ, Heo thì bán hết cho Nhà nước
(cấm giết mổ). Giá lúa và heo do Nhà nước qui định – mua như ăn cướp, bán lại
như cho. Để đối phó với sự bất công ấy, nông dân khai gian sản lượng, tìm cách
bán chui (lậu) nông sản. Để ngăn chặn việc mua lùi bán lậu nông sản, Nhà nước
chủ trương mở nhiều trạm kiểm soát trên các tuyến đường. Nông sản không lưu
thông được, tạo mất cân đối về lương thực, thực phẩm giữa các vùng, nhất là giữa
thành thị và nông thôn, gây rối loạn. Về lương thực, thực phẩm ở nông thôn cung
lớn hơn cầu, ở thành thị cầu lớn hơn cung. Công nghiệp và nông nghiệp không còn
là thị trường của nhau. Công Nông liên minh vốn có lâu đời giờ đây bị rạn nứt,
giữa họ với nhau không còn khắn khít.
Tôi xin đưa vào đây chuyện thật như đùa, xem coi nên cười
hay mếu:
Khi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (chức Thủ tướng sau nầy),
ông Đỗ Mười, công du Tây Nam bộ về, trên xe có chở 1 bao gạo, trạm xét, lôi bao
gạo xuống xe. Lái xe nói: “Gạo người ta cho ông Đỗ Mười đang ngồi đàng trước”.
Người ở trạm cười nói: “Đỗ Mười Một chúng tôi cũng tịch thu”.
3 – Bí lối, xé rào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa 5, những
vị trí chớp bu hầu như đều là người miền miền Bắc, độc đoán, giáo điều, bảo thủ…
Người miền Nam có vào TW Đảng cũng trở về làm tư lịnh địa phương làm lái lúa,
lái lính, lái lợn. Mọi chủ trương chính sách do cơ quan đầu não ban ra, các địa
phương có phận sự thi hành.
Gánh miền Nam nghiêng về dân tộc, mặn kinh tế thị trường;
gánh miền Bắc nghiêng về giai cấp, mặn kinh tế XHCN theo cơ chế tập trung bao cấp.
Gánh miền Bắc ngầm xem gánh miền Nam mất lập trường giai cấp,
theo chủ nghĩa xét lại – xét lại chủ nghĩa Mác Lê Mao. Gánh miền Nam ngầm xem
gánh miền Bắc phong kiến, bảo thủ, giáo điều…
Trước thực trạng, ngoài khan hiếm hàng tiêu dùng, nạn thiếu
lương thực phải nhập bo bo để cầm hơi, một số vị lãnh đạo địa phương miền Nam
xé rào. Chẳng hạn:
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) chủ
trương phân tán dân thành phố đến những vùng có nhiều lúa gạo làm mướn sinh sống.
Đồng thời ông xúi bà Ba Thi dùng công xa đi các tỉnh đồng bằng Nam Bộ mua chui
gạo với giá thỏa thuận về bán lại (không lãi) cho dân TP Hồ Chí Minh. Ông Sáu
Kiệt kể việc này cho tôi nghe: “Tao bảo cô Thi dùng công xa đi mua gạo chui,
làm được ít chuyến cô ấy than: Làm kiểu này chắc có ngày em đi tù quá anh Sáu!
Tao nói: Nếu cô ở tù tôi đem cơm. Thế là cô ấy vui vẻ đi tiếp và làm được việc,
gỡ được nạn đói cho thành phố đông dân nhất nước này”.
Ở tỉnh Long An, Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính (9 Cần) chủ
trương bù giá vào lương rồi thực hiện thuận mua vừa bán, từng bước xóa bỏ cơ chế
tập trung bao cấp. Việc làm này ngoài gây hưng phấn đối với mọi người, còn tăng
nguồn thu đáng kể cho địa phương tỉnh Long An.
Ở các tỉnh khác, dần dần xóa bỏ việc cấm chợ ngăn sông, xếp
dần các trạm kiểm soát trên các trục giao thông. Nhờ vậy, hàng hóa công nông dần
dần đến được với người tiêu dùng theo cơ chế thuận mua vừa bán.
Biết được việc xé rào này, TW phái những đoàn kiểm tra,
thanh tra vào cuộc. Biết rõ cớ sự, TW kết luận: “Đây là những việc làm sai
trái, nhưng đã lỡ làm, giải quyết được những khó khăn trước mắt, tạm thời không
truy cứu, nhưng xem đây là thí điểm”.
Được nước, các địa phương bắt chước làm theo, diện mỗi ngày
một rộng ra không đợi Trung ương cho phép. Đã chịu bung thì chẳng khác vỡ đê,
không lực nào có thể cản nổi. Hơn nữa, cản là trái với quy luật, đi ngược lại
lòng dân – đố dám. Hàng hóa lưu thông dễ dàng, được bán theo giá thỏa thuận,
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ phát triển, không mấy chốc hình thành cơ chế
thị trường trên phạm vi ngày một rộng.
Một kiểu lạm phát cố tình, đúng hơn là kiểu ăn gian lộ liễu:
Trung ương chỉ đạo cả nước thực hiện Giá, Lương, Tiền bằng cách đổi tiền (lần
2), đổi theo tỷ lệ 1 mới đổi 10 cũ, rồi cũng liền sau đó Trung ương chủ trương
tăng giá hàng hóa lên 10 lần – thế là bằng không (0), giá trị đồng bạc mới như
đồng bạc cũ trước khi đổi. Việc làm này gây rối loạn thị trường, lòng dân oán
thán. Đã thế mà không nhận sai, còn toáng lên: Bọn gian thương đang đầu cơ phá
giá thị trường…
Có dịp ra Hà Nội, Ông Chín Tố Hữu, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Bộ
Trưởng rủ tôi và anh Ba Dần tối lại nhà ông chơi. Tôi và anh Dần tới. Trong những
chuyện bao đồng qua lại với nhau, ông Tố Hữu than:
– “Giá cả vọt lên quá…!”
Tôi hỏi lại ngay:
– “Giá lên hay tiền xuống? – Xe chạy, người ngồi trên xe
nhìn xuống đường thấy đường chạy ngược chiều xe rồi nói đường chạy là thầy chạy!
Thử dừng xe lại xem. Vậy giá lên hay tiền xuống?Tiền in phát ra đầy đàng, hàng
vắng bóng. Bắt mạch không đúng trị ẩu là chết người. Chính ông và ông Trần
Phương bày ra vụ Giá, Lương, Tiền, còn than cái nỗi gì! ?”
Ông Tố Hữu không rầy tôi nhưng ông không vui. Tôi thấy mình
nói thẳng như thế là bất kính, phạm thượng, xin cáo lui.
Trước rối loạn về kinh tế, một ai đó nói: “Đổi mới hay là chết”!
Dầu cố nhưng không thể che giấu những bất đồng quan điểm ở cấp
cao: phái cấp tiến đa phần ở miền Nam muốn làm cái gì đó khác hơn cái hiện tại
để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng về mọi mặt. Phái bảo thủ, đa phần ở
miền Bắc, cố vị, bám lấy học thuyết Mác Lê Mao, tranh giành quyền lực. Cả 2
phái bằng mặt chớ không bằng lòng, những cuộc tranh luận gay gắt thường diễn ra
bằng khẩu chiến, bút chiến, hoặc “cấm vận” – cho ngồi chơi xơi nước như 5 ông họTrần:
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Văn Trà, Trần Xuân Bách, Trần Độ chẳng hạn.
Gánh miền Nam nghi ngờ có ai đó đứng đằng sau nhà văn Nguyễn
Mạnh Tuấn. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 năm 1984 – 1985, Tuấn cho ra đời 3 tiểu
thuyết: “Đứng trước biển”, “Những khoảng cách còn lại”, “ Cù lao tràm”. Ba tiểu
thuyết này được phương tiện truyền thông Nhà nước loan truyền rộng rãi. Cả 3 tiểu
thuyết này đều có nội dung đề cao miền Bắc, đả kích thậm tệ miền Nam. Đặc biệt
hơn cả, tiểu thuyết Cù lao tràm cho đăng tải trên báo Nhân dân của Trung ương Đảng
Cộng Sản, và nghe đâu người ta định chuyển thể nó thành phim, thành kịch. Tiểu
thuyết Cù lao tràm dài 697 trang sách, đâu đâu suốt tập truyện đều có chôm chỉa,
châm chích cán bộ miền Nam, nhất là phủ định công lao của họ trong thời điểm kết
thúc cuộc chiến. Phần cuối truyện, tác giả câu khách bằng một đoạn:“Thế là tôi
đã hoàn thành việc đưa đến tay bạn đọc câu chuyện có thật 99% ở một cù lao miền
Tây Nam bộ, còn 1% hư cấu theo yêu cầu của những người trong cuộc”.
Thử hỏi sự thật chiếm đến 99% thì sao gọi là tiểu thuyết được?
Mà gọi thể ký nào đó mới đúng? Đọc qua tiểu thuyết này, đối chiếu với thực tế
thì ngược lại – 99% là hư cấu, 1% là sự thật. Chính từ đó mới gây xôn xao trong
dư luận xã hội, khiến cho đông đảo cán bộ miền Nam không còn nhịn được nữa. Có
người ức quá nói: “Bộ thằng Tuấn này muốn Bắc kỳ hóa Ban Chấp hành TW khóa 6
hay sao?!”
Cuối năm 1985, trước thềm Đại hội Đảng CSVN lần thứ 6, tỉnh
Hậu Giang đăng cai mở Hội thảo tác phẩm Cù lao tràm. Đến dự có gần 300 nhà văn,
nhà chính trị – trong đó có tôi. Suốt 2 ngày, gần như tất cả các tham luận đều
lên án tác phẩm này, đến mức có một ít ngừơi muốn ủng hộ nó nhưng không dám lên
diễn đàn. Đài phát thanh, truyền hình tỉnh Hậu Giang phát đi phát lại cuộc Hội
thảo này. Cuộc Hội thảo này gây chấn động cả nước, khiến lãnh đạo Trung ương Đảng
CSVN phải vào Sài Gòn tổ chức cuộc họp cấp cao với các tỉnh miền Nam để “thanh
minh, thanh nga”, và nói sẽ lệnh cho thu hồi tác phẩm Cù lao tràm này. Ông Lê
Phước Thọ (6 Hậu), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hậu Giang nói: Không thể và không cần
thu hồi nó, chúng tôi sẽ cho đăng và phát hành rộng rãi những tham luận trong
cuộc Hội thảo về nó. Thế rồi liên tiếp suốt mấy tháng trời, báo Hậu Giang cho
đăng tải các tham luận của nhiều cá nhân đã phát trong cuộc Hội thảo về tiểu
thuyết Cù lao tràm của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Sau đó, ông Lê PhướcThọ rời tỉnh
Hậu Giang ra Hà Nội nhậm chức trưởng Ban Tổ Chức Trung ương Đảng.
4 – Đổi mới
Không nói đổi mới cái gì, thứ gì, khiến người ta hiểu đổi mới
toàn diện mạng nội dung cải tổ. Ứng nghĩa với cải tổ là Pérestroika. Theo thuật
ngữ của người Hy Lạp, Pérestroika là xây dựng lại cái đã xây dựng không còn phù
hợp, kể cả con người.
Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương không đổi mới toàn diện (cải
tổ) mà chỉ đổi mới về kinh tế – từ kinh tế XHCN tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường.
Người ta lấy làm lạ là từ nền kinh tế thị trường vốn có ở
Nam Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam chê nó, cải tạo nó thành nền kinh tế XHCN
dẫn đến thất bại, giờ đây trở lại kinh tế thị trường rồi gọi là đổi mới, thật
là kỳ lạ – Đổi cũ mới đúng chớ?
Người ta cũng ngạc nhiên: Đã là kinh tế thị trường còn định
hướng XHCN – đã là đĩ mà nói còn trinh! Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
chủ trương không có đích đến, bởi vì mặt này chế ngự mặt kia? Nói nôm na: kinh
tế thị trường là chia, kinh tế XHCN là cộng, chúng trái ngược nhau – đi đàng
Tây mà nói sẽ tới đàng Đông, hoang đường hết chỗ nói?! Đi đến CNXH ư? – Còn
lâu. Đi đến Tư bản hiện đại ư? – Không bao giờ. Có chăng đến Tư bản hoang dã.
Thứ nửa nạc nửa mỡ này rất khó xơi!
Nguyên lý: Tồn tại quyết định ý thức hay nói cách khác Hạ tầng
quyết định thượng tầng. Hạ tầng là kinh tế thị trường thì thượng tầng không thể
là CNCS được – phải là CNTB mới đồng bộ. Chủ nghĩa Cộng sản không thể đứng vững
trên cái nền (thị trường) không phải của nó – Tồn tại nào phải ý thức ấy? Đổi mới
kinh tế mà không đổi mới chính trị là không đồng nhất, trái với nguyên lý, sẽ rối
loạn.
Phải chăng Đảng Cộng Sản Việt Nam kéo thòng cái đuôi định hướng
XHCN để đỡ sỉ diện, duy trì quyền lực và kéo dài sự sống của kinh tế Quốc doanh
nhằm vụ lợi băng nhóm? – nếu lỗ lấy công quỹ (tiền thuế của dân) bù, lời thì
chia chác nhau như tập đoàn Vinashin hay tập đoàn Dầu khí chẳng hạn?
Thử đặt vấn đề: Đảng Cộng Sản Việt Nam có dám xóa kinh tế thị
trường để trở lại con đường XHCN (tập trung bao cấp) cho đồng bộ hay không? –
Ai cũng có thể trả lời rằng không. Bởi vì: đó là Con đường đau khổ mà nhân dân
Việt Nam nói chung đã hứng chịu nhiều năm và Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng hú vía
vì nó?
Vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm thế nào để hạ tầng và
thượng tầng đồng bộ? Theo thiển nghĩ của tôi có 2 cách: Một, cải tổ chính trị,
thực hiện dân chủ, đa nguyên chính trị, thiết lập Nhà nước Dân chủ pháp quyền:
của dân, vì dân, do dân thay cho Nhà nước Đảng trị: của Đảng, do Dảng vì Đảng hiện
nay. Hai, những người lãnh đạo tiếp tục lợi dụng chức quyền vun vén cho đầy túi
tham, sớm trở thành những nhà tư sản đỏ. Khi thấy không còn vét gì được nữa, hô
đằng sau quay là xong chuyện. Khi ấy con họ đi học nước ngoài thành tài về, có
sẵn vốn mà cha mẹ chúng dày công tích góp được, cùng nhau đổi màu thành những
nhà tư sản có vốn tư bản kết xù tha hồ mà chạy đua với thiên hạ, mặc cho những
Đảng viên ngu trung, những người dân ngu muội ngã ngửa, coi như việc đã rồi,
đành vậy!
Thiển nghĩ này của tôi, chắc cũng còn ai đó cho là suy luận
mò, chẳng lẽ lãnh đạo mà chơi trò hèn hạ thế? Tôi sẽ nói thêm rằng, suy nghĩ của
tôi là có cơ sở bởi vì: Suốt 30 năm, hàng mấy triệu người chết và bị thương cho
cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ, vừa hoàn thành vế Dân tộc thì người ta không thực
hiện vế Dân chủ, dám xây ngang cướp công, cướp quyền, xưng hùng xưng bá một thời
thì việc này có gì mà không dám? – Hãy đợi đấy! Đoạn văn dần lân sau đây ngẫm
cũng thú vị:
Chế độ cộng sản,
Kinh tế tư bản,
Hàng hóa nhập cảng,
Cán bộ tư sản,
Nhân viên chán nản,
Nhân dân di tản.
Bao giờ ông Võ Văn Kiệt cũng xem tôi là thằng em có tật gợi
suy. Khi ông làm Thủ tướng, tôi nói vui với ông ấy: Nếu người nào đó hỏi tôi
“Những ai chống Cộng bạo nhất?”. Tôi sẽ trả lời: “Những người chủ trương làm
kinh tế thị trường”. Ông Kiệt vò đầu tôi cười nói: “Khéo gợi suy”. Cũng dễ hiểu
thôi, vì tôi là quan mà không có quyền, đàng sau câu nói thường đặt dấu chấm hỏi
(?) mang tính chất tham khảo.
Khi công cuộc đổi mới vào đà phát triển, cuộc sống người dân
từng bước ổn định, nâng cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tâng công: Nhờ Đảng sáng
suốt đổi mới…
Nếu nói Đảng Cộng Sản Việt Nam sáng suốt chủ trương đổi mới
– tức là Cởi trói làm cho nền kinh tế phát triển, nhân dân thoát khỏi đói khổ…
thì chúng ta thử đặt lại vấn đề: Trước đó ai chủ trương tróivà trói bằng cách
nào? Xin thưa rằng cũng chính Đảng Cộng Sản Việt Nam trói và trói bằng cách cải
tạo XHCN, gây khốn khổ cho nhân dân, kéo lùi sự phát triển đất nước? Trước sự
phản ứng gay gắt của nhân dân, Đảng Cộng Sản Việt Nam buộc phải (không tự giác)
đổi mới – tức là trở lại con đường cũ kinh tế thị trường. Nếu nói cởi trói (đổi
mới) là sáng suốt thì trói là mù quáng? Đảng trói, Đảng mở đó là Đảng sửa sai.
Để cho vui cửa vui nhà, nhân dân xem hành động đó của Đảng là lấy công chuộc tội
– huề. Nghiêm khắc hơn, không dừng ở đó, phải truy cứu trách nhiệm của Đảng: Do
Đảng sai lầm trong chủ trương cải tạo XHCN (trói) làm cho nhân dân đói khổ, kéo
lùi sự phát triển đất nước suốt 10 năm (1976 – 1986) – công ít, tội nhiều.
Được Đảng Cộng Sản Việt Nam tha mạng cởi trói, dân cố tự
bươi để có mổ và góp phần thuế má chớ Đảng có giúp gì đáng nói cho họ đâu?.
Việc xây dựng đất nước đàng hoàng hơn là do tiền thuế của
nhân dân góp vào và 50.7 tỷ USD vay của quốc tế đến nay chưa trả được. Đáng nói
tiền thuế dân góp và khoảng nợ 50.7 tỷ USD ấy Đảng quản lý hời hợt để lọt vào
túi riêng, đó cũng là cái lỗi của Đảng? Đảng giành cho mình quyền lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện, tuyệt đối thì Đảng cũng phải chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn
diện, tuyệt đối?. Đảng phải chữa ngay cố tật:
“Thất mùa đổ tại thiên tai,
Được mùa do bởi thiên tài Đảng ta”.
5 – Nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do
Nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do là những đôi từ, xét về
mặt ngữ nghĩa, chúng rộng hẹp khác nhau. Giải thích cho rạch ròi về chúng, đó
là công việc của những nhà ngôn ngữ, nhà sử, nhà giáo… Người viết bài nầy thiên
về góc độ chính trị, chỉ đá động đến chúng khi thấy cần.
Tổ chức chính trị gồm đảng nầy, phái nọ…, hình thành trong mỗi
cộng đồng dân tộc ở mỗi quốc gia. Chúng chỉ là những bộ phận của dân tộc.
Thấy gì những khác nhau giữa các Đảng ở Mỹ và Đảng CSVN?
Ở Mỹ, đảng Dân chủ, đảng Cộng hòa… đó là những danh xưng như
những cái mác (made) để phân biệt khi ra tranh và bầu cử. Đảng nhất định bầu chọn
đại biểu của mình đưa ra tranh cử với đại biểu đảng bạn. Cử tri bỏ phiếu bầu trực
tiếp. Người nào đắc cử làm Tổng thống. Tổng thống được quyền tổ chức lại chính
phủ để thực thi những gì mình đã hứa với cử tri khi ra tranh cử. Tổng thống chỉ
được tại vị không quá 8 năm của 2 nhiệm kỳ. Khi đắc cử làm Tổng thống phải vượt
ra khỏi khuôn khổ cục bộ của đảng mình, nhân danh đại diện dân tộc mà lo việc
nước, việc dân. Do dân chủ thật sự “từ dưới lên, từ dân mà ra rồi trở về với
nhân dân”, nên việc chuyển giao quyền lực êm thắm.
Ở Việt Nam ta hiện nay chỉ có 1 đảng CS VN, theo chủ thuyết
Cộng sản. Đảng cầm quyền không phải do dân cử mà do đảng CS VN đấu tranh giành
và chiếm quyền. Do vậy, Đảng CS VN quyết không chia sớt quyền cho bất cứ ai (độc
quyền). Đảng CS VN cầm quyền không niên hạn – cầm quyền vĩnh viễn nếu không bị
thế lực nào đó lật đổ. Cầm đầu đảng cũng không có niên hạn, nếu cần thay thì Đại
hội hoặc Hội nghị Trung ương đảng quyết. Độc đảng, độc quyền, đảng trị bắt nguồn
từ đảng tự tạo quyền cho mình chớ không phải do dân giao như ở Mỹ. Từ đó, đảng
CS VN nắm trọn quyền sinh át, ban phát quyền cho bên dưới theo hảo tâm. Do dân
chủ hình thức, ban phát “từ trên xuống” theo kiểu độc tài đảng trị, mang sắc
thái Phong kiến, nên việc chuyển giao quyền lực thường “nẹt lửa”.
Quyền do giành và chiếm được, đảng CS VN luôn ám ảnh có ai
hoặc tổ chức nào đó đang rình rập giựt lại quyền – nằm mơ cũng thấy kẻ thù. Họ
mang tư tưởng cục bộ, cá nhân, luôn tranh giành quyền lực với nhau, thích tâng
bốc, đố kỵ phản biện, đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích đảng, đặt lợi ích đảng
trên lợi ích dân tộc. Họ sẵn sàng hợp tác với bất kỳ thế lực nào, không phân biệt
trong ngoài nước, miễn sao đảng họ, cá nhân họ được thủ vai toàn trị.
Nhân quyền do tạo hóa ban, dân quyền do dân ban, dân chủ ở
VN do đảng CSVN ban.
Đảng CS VN không thích nói đến nhân quyền hay dân quyền, họ
chỉ nói đến 2 từ Dân chủ. Chủ mà không có quyền thì coi như trớt lớt?. Không phải
người viết cố tình chơi chữ đâu, thực tế nước VN ta đã và đang như vậy.
Đấu tranh đòi nhân quyền không thể nhân nhượng, nếu nhượng sẽ
mất quyền làm người, sẽ rơi vào hàng động vật hạ đẳng.
Thà chết sướng hơn nếu độc lập mà không được tự do, đó chẳng
khác con vật bị nhốt trong chuồng, tha hồ mà tự do ăn uống, ỉa đái… trong phạm
vi cái chuồng đó?.
Đất nước độc lập thống nhất đã 37 năm (1975 – 2012), sao mà
nơi nầy nơi nọ, người ta cứ đòi dân chủ mãi?! – Như đã nói, 30/4/1975 mới hoàn
thành vế Dân tộc của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ, tức là mới loại được ngoại
xâm. Lẽ ra phải thực hiện tiếp vế Dân chủ, có nghĩa là thiết lập Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Đàng nầy, đảng CS VN nhận lớp bước Dân chủ,
thành lập bộ máy chính quyền Chuyên chính vô sản – một nhà nước Đảng quyền: “Của
đảng, do đảng, vì đảng” cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Vậy là đảng CS VN còn nợ
nhân dân VN món nợ dân chủ – một vế của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ đầy máu,
mồ hôi và nước mắt của cả dân tộc suốt 35 năm (1940 – 1975).
Đòi dân chủ tự do như thế có quá đáng không?. Hãy xét xem:
Các nước phát triển Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức… họ có dân chủ đâu,
còn ở VN ta nào là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, độc lập tự do hạnh phúc”. Đó là chưa nói Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992
đều đầy ắp: Tự do chính kiến, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do hội họp, tự
do lập hội, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do thân thể, tự do hành nghề, tự do
biểu tình theo luật định… như thế còn chưa đủ sao (?!).
Xin thưa rằng, về hình thức, như thế đã quá đủ. Nhưng xét về
nội dung thì rỗng. Bởi vì, dân chủ ở VN ta là dân chủ XHCN, tức là dân chủ đặt
dưới sự lãnh đạo của đảng CS VN, nằm trong cơ chế bao trùm:“Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Dân làm chủ”. Đảng CS VN đã đưa quyền của mình vào điều 4 Hiến
pháp: “Đảng CS VN là đảng duy nhất, lãnh đạo Nhà nước và Xã hội một cách trực
tiếp, toàn diện và tuyệt đối”.
Riêng về việc nầy, Đảng CS VN đã nói và làm một cách triệt để:
Ngay từ đầu, đảng nhanh chóng thành lập Nhà nước Đảng quyền theo thể thức “Đảng
chọn Dân bầu” – Đảng chọn (cơ cấu nhân sự) gần như toàn bộ là đảng viên của
mình ra ứng cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, làm động tác giả, đưa sang
Mặt trận đánh bóng một chập mới đưa ra dân bầu. Khi bầu, buộc cử tri phải bầu
theo nguyên tắc“bầu đúng, bầu đủ” – đúng là đúng người có đức có tài, đủ là đủ
số lượng theo quy định. Ôi trời, số người đưa ra thì hạn hẹp, toàn là “bầu eo
bí sượng”, đức hèn, tài mọn, cấp bằng học vị của họ phần lớn là bằng thật học
giả, đa phần là bằng chính trị…. Phận làm dân, thôi thì bầu đại cho qua chuyện!.
Thế là kẻ cơ hội thất đức, bất tài có cơ hội chui vào bộ máy công quyền tha hồ
mà tác oai tác quái. Họ có làm bậy, cư tri cũng không có quyền bãi miễn họ, vì
đảng chọn và đưa họ vào ghế quan chớ đâu phải cử tri. Họ như quan Thừa sai thời
Pháp thuộc được cử đến cai trị đám dân đen. Tiền đồ của họ thế nào đều do đảng
cấp trên họ định, họ chỉ ngán cấp trên của ho thôi, họ xem cử tri như những thảo
dân thấp kém. Nếu dân chịu không xiết kêu than về họ thì đảng đổ: Cũng do mấy
người bầu ra đó chớ ai?!
Về việc bầu bán nầy, nếu dân chủ thật sự thì cử tri có quyền
tất cả các khâu: đề cử, ứng cử, bầu cử và bãi miễn.
Trước thực trạng dân chủ ở nước ta như vậy, xin cho phép người
viết thủ vai trọng tài để nhìn xuống nói rằng: Cương lĩnh của đảng CS VN và Hiến
pháp nước CHXHCN VN đã khẳng định dân chủ ở nước VN ta là dân chủ XHCN – Dân chủ
đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CS VN, đảng cho gì nhận nấy theo kiểu xin – cho.
Không xin, chưa cho mà làm ẩu liệu hồn. Hãy nhìn vào bảng to trước trụ sở Công
an 44 Yết Kiêu Hà nội thấy câu “Công an chỉ biết còn Đảng, còn mình”. Thế là
Công an đã tự nhận mình không còn là Công an Nhân dân, mà là Công an của đảng.
Công an đang kiên quyết bảo vệ Chuyên chính Vô sản. Có lẽ từ đó, trong dân gian
xuất hiện câu “Công an vì đảng quên Dân, vì thân phục vụ”.Ngước lên nói rằng:
Người ta đang đòi nợ máu, nước mắt, mồ hôi… đã đổ trong công cuộc cách mạng Dân
tộc Dân chủ suốt 35 năm (1940 – 1975). Đảng CS VN nhận lớp Dân chủ, có nghĩa là
đảng CS VN còn thiếu nhân dân món nợ ấy. Xin hãy nhìn vào những nghĩa trang và
những người thương binh tật nguyền ngoài xã hội để tính giá trị món nợ ấy:
Biết bao người đi rồi đi mãi,
Biết bao người tật nguyền đang sống với chuỗi ngày dầu dãi nắng
sương,
Không ít người đang bị cầm giam trong bốn bức tường, bởi can
tội đòi dân chủ. – Nợ thì phải trả, không xù được đâu?
Thử đặt vấn đề: Ai đưa ra cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Dân làm chủ”?. Ai cũng có thể trả lời, đó là Đảng CS VN. Ấy thế, sao mọi bê
bối trong xã hội, Đảng CS VN đều đổ cho cơ chế?. Cơ chế ấy đã và đang gây khốn
khổ cho nhiều người, tại sao Đảng CS VN chưa chịu từ bỏ nó?. Cũng dễ giải thích
thôi, vì nó gây khổ cho nhiều người chớ phải đâu cho mọi người.
Có lẽ nhìn vào sự vận hành của cơ chế và thể chế chính trị của
Đảng CS VN, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu khắc họa:
Đảng chỉ tay
Quốc hội giơ tay
Mặt trận vỗ tay
Chính phủ khoanh tay
Quốc doanh ngửa tay
Tội phạm ngoặc tay
Công an còng tay
Trí thức phẩy tay
Quan chức đầy tay
Dân trắng tay.
Ông Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước VN, cán bộ cao cấp
của Đảng CS VN khẳng định: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Ông Triết nói thế
có nghĩa: Đảng CS VN muốn tồn tại chỉ còn mỗi cách là “phải tiếp tục chuyên chế?”.
Nếu vậy thì Đảng CS VN cố duy trì quyền lực để tồn tại trong nỗi bất hạnh của
người dân?!.
Nguồn: https://www.danluan.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét