Thứ Năm, 3 tháng 11, 2016

"Chạy" - Thiện Tùng (Phần 1)


LỜI TÁC GIẢ

Sau 30/4/1975, người ta đặt tiêu chuẩn “Yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội” (CNXH), tôi chỉ đáp ứng được một trong hai yêu cầu ấy nên vội chạy. Đối với CNXH, tôi đã chạm trán với nó ít nhất cũng hiệp đầu chớ không phải chạy khi vừa thấy mặt nó – tức là không phải chạy mặt.
Tôi chạy nó (CNXH) vì sự quái dị, tính quái ác và phản dân chủ của nó.

“Yêu nước là yêu CNXH” – một sự gán ghép chết người. Không phải vậy sao? – Nếu không yêu CNXH vô hình trung là không yêu nước chớ gì? Nhưng, nếu yêu thêm CNXH thì đất nước, dân tộc nầy tránh sao khỏi tang hoang cùng khổ?! Thôi thì thà tôi đành mang danh không yêu nước để khỏi phải góp phần gây tang tóc, đau thương cho đất nước và dân tộc.

Nhờ có tiếp cận, tôi sẽ kể đúng nhưng không thể đủ về sự “diễu võ vươn oai” của nó ở Nam Việt Nam.

Muốn biết tôi là ai để chủi rủa… hay tranh luận, hãy xem lai lịch của tôi ghi rõ ở cuối bài viết nầy.

1- Thống nhất đất nước, chuyển giai đoạn cách mạng

Ai sống ở Việt Nam (VN) thời 1940-1975 đều nghe nói đến cuộc Cách mạng “Dân tộc Dân chủ” (DTDC) do Hồ Chí Minh phát động chống xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ. Cuộc Cách mạng DTDC hàm chứa 2 nội dung: Dân tộc là loại ngoại xâm, Dân chủ là xây dựng Nhà nước “Dân chủ Pháp quyền” của dân, do dân, vì dân. 12 giờ 30/4/1975, coi như đã hoàn thành vế 1 (DT). Lẽ ra phải tiếp tục thực hiện vế 2 (DC) để hoàn thành trọn vẹn cuộc Cách mạng DTDC như đã thệ ước với nhân dân. Nhưng sau 30/4/1975, các vị lãnh đạo Đảng Lao Động VN và Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa “bỏ bót” đổ xô vào Nam VN để thị sát và bàn việc thống nhứt đất nước.

Ai cũng ngỡ rằng, việc thống nhất đất nước sẽ thực hiện dân chủ trên tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, không ngờ Đảng Lao Động VN áp đặt thống nhứt theo nội dung nhứt thống:

– Cho mình là người thắng cuộc, cấp bách tiến hành “Cải tạo Ngụy quân, Ngụy quyền” với tên gọi X.1: Gọi tất cả Sĩ quan, Công chức thuộc Việt Nam Cộng hòa, khoảng nửa triệu người, còn ở lại VN ra trình diện rồi đưa vào các trại cải tạo – cải tạo thời gian ngắn hay dài tùy theo cấp chức. Việc làm nầy gây ngỡ ngàng không những đối với những người “thua cuộc”, vì về cơ bản, nó trái với chính sách “Hòa giải Hòa hợp Dân tộc” do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam công bố vào những tháng cuối cuộc chiến. Phải nói, nhờ chính sách Hòa giải Hòa hợp Dân tộc mà Tổng thống Dương Văn Minh và nhiều vị có thiện ý hòa bình trong Chính quyền và Quân đội phía VNCH làm cơ sở chiêu hòa đối với thuộc hạ của mình, tháo được ngòi nổ, kết thúc cuộc chiến êm đẹp, trọn vẹn, cả 2 bên tham chiến đều thở phào nhẹ nhõm, chấm dứt cảnh huynh đệ tương tàn.

Chủ trương cải tạo Ngụy quân, Ngụy quyền khiến người ta cảm thấy như có sự kiêu binh, ỷ thế cậy quyền, bội ước, tạo căng thẳng, chuốc oán không cần thiết.

Tuyên bố đã hoàn thành cuộc Cách mạng DTDC, chuyển sang Cách mạng “Xã hôi Chủ nghĩa” (XHCN) trên toàn cõi VN – không đá động gì đến vế 2 (DC).

– Lẽ ra, phải tổ chức rình rang việc hiệp thương thống nhứt đất nuốc, đàng nầy, người ta âm thầm phủ định không thương tiếc những tổ chức Cách mạng vang danh một thời ở miền Nam như: Chính phủ“Cộng hòa Miền Nam” do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát lãnh đạo; “Măt Trận Dân tộc Giải Miền Nam” do luật sư Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo; “Mặt trận Liên minh các Dân tộc vì hoà bình” do luật sư Trịnh Đình Thảo lãnh đạo. Đồng thời phủ định lá cờ nửa đỏ nửa xanh, có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, một biểu tượng cho các tổ chức kháng chiến ở miền Nam. Những nhân sĩ, trí thức trong 3 tổ chức vừa kể coi như “hết hạn sử dụng”, tạm thời giao cho họ những chức vụ hư danh, chờ sắp xếp nghỉ hưu. Họ bị cướp công, bị khinh thường, bị bạc đãi, lâm vào cảnh như những con nai vàng ngơ ngác trên hoang mạc.

Trước thực trạng, một số cán bộ miền Nam lén rỉ tai nhau: “Nếu nói Trung quốc là Đại Hán thì Miền Bắc VN là Tiểu Hán”.

– Sáp nhập gần nửa triệu đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam vào Đảng Lao động VN.

– Để độc đảng, độc tôn…, Đảng CS VN “thuyết phục” 2 chiến hữu là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội “tự nguyện” giaỉ tán, được xem như cái chết tự chọn.

– Đổi tên Đảng, từ Đảng Lao động VN thành Đảng Cộng sản VN.

– Sáp nhập Đoàn Thanh niên Cách mạng Miền Nam vào Đoàn Thanh niên Cộng sản VN.

– Sáp nhập Quân Giải phóng Miền Nam vào Quân đội Nhân Dân VN.

– Sáp nhập Ban và lực lượng An ninh Miền Nam vào Công an Nhân dân VN.

– Ồ ạt đưa cán bộ miền Bắc vào “chi viện” cho các tỉnh miền Nam xem như những cố vấn.

– Cho sĩ quan Quân đội gốc Miền Nam ra quân, thay vao đó là những sĩ quan miền Bắc. “Tăng viện” Công an, Cảnh sát miền Bắc cho các thành phố lớn ở miền Nam.

– Đổi tên nước, từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN.

– Đảng CSVN tự cơ cấu nhân sự rồi cổ võ nhân dân bầu ra Quốc hội nước Công hòa XHCN VN – coi như cơ quan Lập pháp rồi từ đó cử ra Hành pháp và Tư pháp cấp Trung ương. Tiếp theo, cũng do Đảng CS VN cơ cấu nhân sự, tổ chức cho dân bầu ra các Hội đồng Nhân dân, rồi cũng từ các Hội đồng ấy cử ra các Ủy ban Nhân dân các cấp ở địa phương và cơ sở. Thế là Đảng CS VN đã hình thành bộ máy Chính quyền Chuyên chính Vô sản từ Trung ương cho đến cơ sở, đó là cánh tay nối dài của Đảng CS VN.

– Song song với bộ máy Chính quyền Chuyên chính Vô sản, Đảng CS VN còn tổ chức riêng cho mình bộ máy gồm: Ban Tuyên huấn, Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra, Ban Khoa giáo, Ban Dân vận, Ban Nội Chính, Ban Kinh tế Tài Chính..v.v… Đồng thời, Đảng CS VN cũng hình thành cho riêng mình hệ thống Trường Đảng và hệ thống Báo chí Đảng từ Trung ương cho tới các Địa phương. Những Ban bệ và những phương tiện nầy, ngoài giám sát bộ máy Chính quyền, phải đảm bảo toàn xã hội đồng thuận với Đảng về ý chí và hành động.

– Hình thành và hoàn thiện từng bước các tổ chức quần chúng của Đảng do Nhà nước trả lương như: Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên…, được xem như những Bộ Tư lịnh binh chủng.

– Quân đội và Công an khi thành lập đã xác định trách nhiệm “Trung với nước, hiếu với dân”, nay Đảng CS VN bảo đổi lại “Trung với Đảng, hiếu với dân”.

– Lễ tục hàng năm, hễ Tết đến, chữ “Mừng Xuân” xuất hiện ở khắp nơi, giờ đây, Đảng CS VN chỉ đạo trên toàn cõi VN phải thêm 2 từ nữa “Mừng Đảng, Mừng xuân”.

Nếu chưa quen hãy tập cho quen: gọi “Đảng ta” cho gọn, gọi Đảng CS VN chi cho dài dòng.

Đưa nội dung “Đảng CS VN là Đảng duy nhứt lãnh đạo Nhà nước và Xã hội… vào điều 4 Hiến pháp 1980.

– Đảng CS VN đưa ra cơ chế chính trị bao trùm (cơ chế mẹ) “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”.

Đảng CS VN đề ra tiêu chuẩn “Yêu nước là yêu CNXH” – Một sự gán ghép chết người. Không phải vậy sao? – Nếu ai không yêu CNXH là người ấy không yêu nước chớ còn gì nữa?! Nếu không yêu nước vô hình trung là phản nước, là kẻ thù…!.

Thế là Đảng CS VN, chỉ trong thời gian ngắn, đã tạo cho mình thế đứng thượng phong, độc tôn, toàn trị. Với cánh tay nối dài: Có bộ máy chính quyền Chuyên chính Vô sản; Có các Ban bệ của Đảng được tổ chức song trùng với Ban bộ của chính quyền; Có Mặt trận và cac Đoàn thể quần chúng; Có Quân đội và Công an hùng mạnh, một lòng một dạ trung với Đảng; Có hàng triệu Đoàn viên Cộng sản là những “Ấu chúa”, làm lực lượng hậu bị cho Đảng. v.v… Rõ ràng, Đảng CS VN đã bày binh bố trận không còn kẽ hở?! Có lẽ, Đảng CS VN căn cứ vào thế trận vững như bàn thạch, tự sướng, tung ra câu “Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm”.

2 – Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa

“Để đuổi kịp miền Bắc”, năm 1976, Đảng CS VN chủ trương cả miền Nam tiến hành cải tạo XHCN, chuyển nền kinh tế thị trường ở miền Nam sang kinh tế XHCN. Đảng CS VN không dùng 2 từ tước đoạt mà dùng cụm từ “Công hữu hóa và tập thể hóa về tư liệu sản xuất” – Giải thích: Tất cả những gì thuộc đối tượng để người lao động tác động vào tạo ra của cải vật chất… được xem là tư liệu sản xuất (TLSX), chẳng hạn như nhà máy, hầm mỏ, ruộng đất… và những cơ sở dịch vụ khác.

Cuộc cải tạo XHCN diễn ra theo trình tự:

Đánh Tư sản mại bản: Bao gồm những nhà Tư sản kinh doanh có dinh líu với nước ngoài và những nhà Tư sản dính hoặc dựa chế độ cũ (Việt Nam Cộng hòa).

Sau bước điều tra lập danh sách, mở chiến dịch mang tên X.2, bất thần, đồng loạt đột nhập các mục tiêu, kiểm kê, tịch thu cả nhà lẫn tài sản của họ, gây hoang mang, hỗn loạn. Tài sản tịch thu “đổ tháo” rất khó kiểm tra. Vàng mà cho phép được ghi kim loại màu vàng, nên vàng thật cũng có thể đổi thành vàng giả – miễn màu vàng là được.

Đoàn tham gia chiến dịch X.2 ở Sài gòn, khi nghỉ trưa, một người nói: “Kỳ nầy đánh đổ Tư sản thật rồi”. Một cán bộ kỳ cựu đỡ lời “Không, đánh đổi Tư sản! ”.

Cải tạo Công và Thương nghiệp: Các cơ sở Công, thương nghiệp, dịch vụ… hoặc hiến cho Nhà nước hoặc vào làm ăn tập thể hoặc ngưng hoạt động.

Không bao lâu, bằng cách nầy hay cách nọ, nếu không thuộc về Quốc doanh hay tập thể thì đều phải đóng cửa. Chỉ thời gian ngắn, Quốc doanh và Tập thể chiếm toàn bộ thị phần. Tư nhân nếu còn chỉ hoạt động chui, bắt được là tới số.

Người Việt gốc Hoa ở Sài gòn, nhìn thực tế thấy sao đó, nói: “Sợ Cộng sản không ăn, chớ họ chịu ăn thì không có gì phải sợ”. Thế là tư nhân hành nghề dịch vụ nhỏ lai rai “lọt lưới”.

Cải tạo Nông nghiệp: Khi va vào như vướng phải khối bầy nhầy, mới thấm thía câu “nhứt hậu hôn, nhì điền thổ”.

Cùng một thời điểm, triển khai chủ trương cải tạo Nông nghiệp trên toàn cõi Nam VN (từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau). Nhưng Trung ương chọn tỉnh Tiền Giang làm trước 1 bước. Tỉnh Tiền Giang chọn xã Tân Hội – xã Anh hùng trong chiến tranh, làm Hợp Tác Xã (HTX) thí điểm của tỉnh. Cách tiến hành theo mẫu miền Bắc.

Nông dân ở xã Tân Hội nầy, hầu như ai cũng có công ít nhiều với Cách mạng. Khi đụng vào ruộng đất của họ, họ chẳng sợ gì ai, phản ứng không chừa cặn.

Ngoài cố vấn từ miền Bắc kè bên, cán bộ tỉnh, huyện đều là võ tướng, văn tướng quầng như trâu đạp lúa mà chẳng ăn thua. Sau “hội chẩn”, Tỉnh ủy Tiền Giang quyết định dời thí điểm đến ấp Phú Quới, xã Yên Luông, huyện Gò Công – Vùng trọng điểm Bình định của Việt Nam Cộng hòa trước đây, giao cho tôi trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Có lẽ Tỉnh ủy nghĩ rằng, dân vùng địch hậu họ sợ, sẽ ngoan ngoãn vâng theo. Chẳng biết có phải do họ sợ không, vận động họ đưa đất vào HTX nông nghiệp làm ăn tập thể không mấy khó, nhưng với lý nầy, cớ nọ, họ lao động chiếu lệ, sau một mùa vụ cũng đổ vỡ.

Gò Công ngưng làm HTX nông nghiệp, tiến hành làm đại trà Tổ Đoàn Kết Sản xuất Nông nghiệp, ổn định được đời sống nông dân, đủ sản phẩm nông nghiệp giao nộp cho Nhà nước theo qui định. Thấy huyện Gò Công vùng đất nhiểm mặn mà “ăn nên làm ra”, ông Võ văn Kiệt, Bí thư đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đến Gò Công đến tham quan, ông hỏi tôi: “Đoàn kết sản xuất là làm thế nào?”. Tôi trà lời: “Thì củng bắt chước các anh làm Vần Đổi Công thời kháng Pháp”. Ông Kiệt vỗ vai tôi nói: “Thì ra…”.

Có lẽ để nung các địa phương khác, tỉnh Tiền Giang làm HTX nông nghiệp chẳng ra hồn gì, thế mà Trung ương chỉ đạo tỉnh Tiền Giang mở Đại hội công bố hoàn thành về cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp. Khách mời gồm những đoàn đại biểu các Tỉnh, Thành thuộc khu vực phía Nam, có Báo giới, Văn giới và 6 Ủy viên Trung ương Đảng CS VN đến tụ hội. Làm chẳng ra đâu, nhưng tổng kết nghe cũng khá, từng hồi từng chập pháo tay nổ giòn. Do “sinh non”, những “đứa con” nào ra trước chết trước…, không lâu sau, chúng chết phủi tay.

Có thể nói, trong chiến tranh Nông dân nhiệt tình đi theo Đảng bao nhiêu thì giờ đây họ nhiệt tình chống lại chủ trương Hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng bấy nhiêu – từng nơi, từng lúc, họ phản ứng gần như tử thủ, thí mạng cùi giữ đất như người điên loạn.

Có lẽ thấy không ổn, Đảng CS VN xuống thang, chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp, có tên là “khoán 100” – có nghĩa là trả 100% đất lại cho xã viên, rồi căn cứ chất lượng đất, giao khoán sản phẩm trên đầu mẫu (ha)- có lẽ vừa để xả căng, vừa khắc phục nạn thiếu lương thực trầm trọng.

Ấy thế, lúc bấy giờ, ông Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, còn nói trên diễn đàn: “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp là bước thụt lùi cần thiết”. Khi nghe ông Thọ nói thế, tôi liên tưởng đến vở “Tiếng Trống Mê Linh”, lúc tướng Tàu thách thi bắn tên, các nữ tướng hăng hái vào cuộc thi. Trưng Trắc nhắc khéo các nữ tướng: “Con Hổ trước khi vồ mồi nó thu hình lại”. Vậy có phải ý ông Thọ nói lùi để tiến bạo hơn chớ không phải lùi luôn?. Nếu vậy, ông Thọ ngầm nhắc nhở mọi người kiên định lập trường XHCN chớ gi?.

Nói khoán sản phẩm chớ khoán cái nỗi gì, sản xuất nông nghiệp bao giờ cũng phụ thuộc ngoại cảnh như thời tiết, sâu rầy chẳng hạn, kiểm tra sản lượng được giao chi cho mất công, nếu họ làm không đạt sản lượng theo giao kèo, bằng lý nầy cớ nọ, họ đổ lỗi khách quan thì rầy rà hay phạt vạ gì họ được?, chỉ còn cách thu mua sản phẩm nông nghiệp, nhất là 2 mặt hàng Lúa và Heo. Lúa thì qui định để laị cho mỗi khẩu nông nghiệp 15 giạ, Heo thì bán hết cho Nhà nước (cấm giết mổ). Giá lúa và heo do Nhà nước qui định – mua như ăn cướp, bán lại như cho. Để đối phó với sự bất công ấy, nông dân khai gian sản lượng, tìm cách bán chui (lậu) nông sản. Để ngăn chặn việc mua lùi bán lậu nông sản, Nhà nước chủ trương mở nhiều trạm kiểm soát trên các tuyến đường. Nông sản không lưu thông được, tạo mất cân đối về lương thực, thực phẩm giữa các vùng, nhất là giữa thành thị và nông thôn, gây rối loạn. Về lương thực, thực phẩm ở nông thôn cung lớn hơn cầu, ở thành thị cầu lớn hơn cung. Công nghiệp và nông nghiệp không còn là thị trường của nhau. Công Nông liên minh vốn có lâu đời giờ đây bị rạn nứt, giữa họ với nhau không còn khắn khít.

Tôi xin đưa vào đây chuyện thật như đùa, xem coi nên cười hay mếu:

Khi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (chức Thủ tướng sau nầy), ông Đỗ Mười, công du Tây Nam bộ về, trên xe có chở 1 bao gạo, trạm xét, lôi bao gạo xuống xe. Lái xe nói: “Gạo người ta cho ông Đỗ Mười đang ngồi đàng trước”. Người ở trạm cười nói: “Đỗ Mười Một chúng tôi cũng tịch thu”.

3 – Bí lối, xé rào

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa 5, những vị trí chớp bu hầu như đều là người miền miền Bắc, độc đoán, giáo điều, bảo thủ… Người miền Nam có vào TW Đảng cũng trở về làm tư lịnh địa phương làm lái lúa, lái lính, lái lợn. Mọi chủ trương chính sách do cơ quan đầu não ban ra, các địa phương có phận sự thi hành.

Gánh miền Nam nghiêng về dân tộc, mặn kinh tế thị trường; gánh miền Bắc nghiêng về giai cấp, mặn kinh tế XHCN theo cơ chế tập trung bao cấp.

Gánh miền Bắc ngầm xem gánh miền Nam mất lập trường giai cấp, theo chủ nghĩa xét lại – xét lại chủ nghĩa Mác Lê Mao. Gánh miền Nam ngầm xem gánh miền Bắc phong kiến, bảo thủ, giáo điều…

Trước thực trạng, ngoài khan hiếm hàng tiêu dùng, nạn thiếu lương thực phải nhập bo bo để cầm hơi, một số vị lãnh đạo địa phương miền Nam xé rào. Chẳng hạn:

Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) chủ trương phân tán dân thành phố đến những vùng có nhiều lúa gạo làm mướn sinh sống. Đồng thời ông xúi bà Ba Thi dùng công xa đi các tỉnh đồng bằng Nam Bộ mua chui gạo với giá thỏa thuận về bán lại (không lãi) cho dân TP Hồ Chí Minh. Ông Sáu Kiệt kể việc này cho tôi nghe: “Tao bảo cô Thi dùng công xa đi mua gạo chui, làm được ít chuyến cô ấy than: Làm kiểu này chắc có ngày em đi tù quá anh Sáu! Tao nói: Nếu cô ở tù tôi đem cơm. Thế là cô ấy vui vẻ đi tiếp và làm được việc, gỡ được nạn đói cho thành phố đông dân nhất nước này”.

Ở tỉnh Long An, Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính (9 Cần) chủ trương bù giá vào lương rồi thực hiện thuận mua vừa bán, từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp. Việc làm này ngoài gây hưng phấn đối với mọi người, còn tăng nguồn thu đáng kể cho địa phương tỉnh Long An.

Ở các tỉnh khác, dần dần xóa bỏ việc cấm chợ ngăn sông, xếp dần các trạm kiểm soát trên các trục giao thông. Nhờ vậy, hàng hóa công nông dần dần đến được với người tiêu dùng theo cơ chế thuận mua vừa bán.

Biết được việc xé rào này, TW phái những đoàn kiểm tra, thanh tra vào cuộc. Biết rõ cớ sự, TW kết luận: “Đây là những việc làm sai trái, nhưng đã lỡ làm, giải quyết được những khó khăn trước mắt, tạm thời không truy cứu, nhưng xem đây là thí điểm”.

Được nước, các địa phương bắt chước làm theo, diện mỗi ngày một rộng ra không đợi Trung ương cho phép. Đã chịu bung thì chẳng khác vỡ đê, không lực nào có thể cản nổi. Hơn nữa, cản là trái với quy luật, đi ngược lại lòng dân – đố dám. Hàng hóa lưu thông dễ dàng, được bán theo giá thỏa thuận, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ phát triển, không mấy chốc hình thành cơ chế thị trường trên phạm vi ngày một rộng.

Một kiểu lạm phát cố tình, đúng hơn là kiểu ăn gian lộ liễu: Trung ương chỉ đạo cả nước thực hiện Giá, Lương, Tiền bằng cách đổi tiền (lần 2), đổi theo tỷ lệ 1 mới đổi 10 cũ, rồi cũng liền sau đó Trung ương chủ trương tăng giá hàng hóa lên 10 lần – thế là bằng không (0), giá trị đồng bạc mới như đồng bạc cũ trước khi đổi. Việc làm này gây rối loạn thị trường, lòng dân oán thán. Đã thế mà không nhận sai, còn toáng lên: Bọn gian thương đang đầu cơ phá giá thị trường…

Có dịp ra Hà Nội, Ông Chín Tố Hữu, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng rủ tôi và anh Ba Dần tối lại nhà ông chơi. Tôi và anh Dần tới. Trong những chuyện bao đồng qua lại với nhau, ông Tố Hữu than:

– “Giá cả vọt lên quá…!”

Tôi hỏi lại ngay:

– “Giá lên hay tiền xuống? – Xe chạy, người ngồi trên xe nhìn xuống đường thấy đường chạy ngược chiều xe rồi nói đường chạy là thầy chạy! Thử dừng xe lại xem. Vậy giá lên hay tiền xuống?Tiền in phát ra đầy đàng, hàng vắng bóng. Bắt mạch không đúng trị ẩu là chết người. Chính ông và ông Trần Phương bày ra vụ Giá, Lương, Tiền, còn than cái nỗi gì! ?”

Ông Tố Hữu không rầy tôi nhưng ông không vui. Tôi thấy mình nói thẳng như thế là bất kính, phạm thượng, xin cáo lui.

Trước rối loạn về kinh tế, một ai đó nói: “Đổi mới hay là chết”!

Dầu cố nhưng không thể che giấu những bất đồng quan điểm ở cấp cao: phái cấp tiến đa phần ở miền Nam muốn làm cái gì đó khác hơn cái hiện tại để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng về mọi mặt. Phái bảo thủ, đa phần ở miền Bắc, cố vị, bám lấy học thuyết Mác Lê Mao, tranh giành quyền lực. Cả 2 phái bằng mặt chớ không bằng lòng, những cuộc tranh luận gay gắt thường diễn ra bằng khẩu chiến, bút chiến, hoặc “cấm vận” – cho ngồi chơi xơi nước như 5 ông họTrần: Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Văn Trà, Trần Xuân Bách, Trần Độ chẳng hạn.

Gánh miền Nam nghi ngờ có ai đó đứng đằng sau nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 năm 1984 – 1985, Tuấn cho ra đời 3 tiểu thuyết: “Đứng trước biển”, “Những khoảng cách còn lại”, “ Cù lao tràm”. Ba tiểu thuyết này được phương tiện truyền thông Nhà nước loan truyền rộng rãi. Cả 3 tiểu thuyết này đều có nội dung đề cao miền Bắc, đả kích thậm tệ miền Nam. Đặc biệt hơn cả, tiểu thuyết Cù lao tràm cho đăng tải trên báo Nhân dân của Trung ương Đảng Cộng Sản, và nghe đâu người ta định chuyển thể nó thành phim, thành kịch. Tiểu thuyết Cù lao tràm dài 697 trang sách, đâu đâu suốt tập truyện đều có chôm chỉa, châm chích cán bộ miền Nam, nhất là phủ định công lao của họ trong thời điểm kết thúc cuộc chiến. Phần cuối truyện, tác giả câu khách bằng một đoạn:“Thế là tôi đã hoàn thành việc đưa đến tay bạn đọc câu chuyện có thật 99% ở một cù lao miền Tây Nam bộ, còn 1% hư cấu theo yêu cầu của những người trong cuộc”.

Thử hỏi sự thật chiếm đến 99% thì sao gọi là tiểu thuyết được? Mà gọi thể ký nào đó mới đúng? Đọc qua tiểu thuyết này, đối chiếu với thực tế thì ngược lại – 99% là hư cấu, 1% là sự thật. Chính từ đó mới gây xôn xao trong dư luận xã hội, khiến cho đông đảo cán bộ miền Nam không còn nhịn được nữa. Có người ức quá nói: “Bộ thằng Tuấn này muốn Bắc kỳ hóa Ban Chấp hành TW khóa 6 hay sao?!”

Cuối năm 1985, trước thềm Đại hội Đảng CSVN lần thứ 6, tỉnh Hậu Giang đăng cai mở Hội thảo tác phẩm Cù lao tràm. Đến dự có gần 300 nhà văn, nhà chính trị – trong đó có tôi. Suốt 2 ngày, gần như tất cả các tham luận đều lên án tác phẩm này, đến mức có một ít ngừơi muốn ủng hộ nó nhưng không dám lên diễn đàn. Đài phát thanh, truyền hình tỉnh Hậu Giang phát đi phát lại cuộc Hội thảo này. Cuộc Hội thảo này gây chấn động cả nước, khiến lãnh đạo Trung ương Đảng CSVN phải vào Sài Gòn tổ chức cuộc họp cấp cao với các tỉnh miền Nam để “thanh minh, thanh nga”, và nói sẽ lệnh cho thu hồi tác phẩm Cù lao tràm này. Ông Lê Phước Thọ (6 Hậu), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hậu Giang nói: Không thể và không cần thu hồi nó, chúng tôi sẽ cho đăng và phát hành rộng rãi những tham luận trong cuộc Hội thảo về nó. Thế rồi liên tiếp suốt mấy tháng trời, báo Hậu Giang cho đăng tải các tham luận của nhiều cá nhân đã phát trong cuộc Hội thảo về tiểu thuyết Cù lao tràm của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Sau đó, ông Lê PhướcThọ rời tỉnh Hậu Giang ra Hà Nội nhậm chức trưởng Ban Tổ Chức Trung ương Đảng.

4 – Đổi mới

Không nói đổi mới cái gì, thứ gì, khiến người ta hiểu đổi mới toàn diện mạng nội dung cải tổ. Ứng nghĩa với cải tổ là Pérestroika. Theo thuật ngữ của người Hy Lạp, Pérestroika là xây dựng lại cái đã xây dựng không còn phù hợp, kể cả con người.

Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương không đổi mới toàn diện (cải tổ) mà chỉ đổi mới về kinh tế – từ kinh tế XHCN tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.

Người ta lấy làm lạ là từ nền kinh tế thị trường vốn có ở Nam Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam chê nó, cải tạo nó thành nền kinh tế XHCN dẫn đến thất bại, giờ đây trở lại kinh tế thị trường rồi gọi là đổi mới, thật là kỳ lạ – Đổi cũ mới đúng chớ?

Người ta cũng ngạc nhiên: Đã là kinh tế thị trường còn định hướng XHCN – đã là đĩ mà nói còn trinh! Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chủ trương không có đích đến, bởi vì mặt này chế ngự mặt kia? Nói nôm na: kinh tế thị trường là chia, kinh tế XHCN là cộng, chúng trái ngược nhau – đi đàng Tây mà nói sẽ tới đàng Đông, hoang đường hết chỗ nói?! Đi đến CNXH ư? – Còn lâu. Đi đến Tư bản hiện đại ư? – Không bao giờ. Có chăng đến Tư bản hoang dã. Thứ nửa nạc nửa mỡ này rất khó xơi!

Nguyên lý: Tồn tại quyết định ý thức hay nói cách khác Hạ tầng quyết định thượng tầng. Hạ tầng là kinh tế thị trường thì thượng tầng không thể là CNCS được – phải là CNTB mới đồng bộ. Chủ nghĩa Cộng sản không thể đứng vững trên cái nền (thị trường) không phải của nó – Tồn tại nào phải ý thức ấy? Đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị là không đồng nhất, trái với nguyên lý, sẽ rối loạn.

Phải chăng Đảng Cộng Sản Việt Nam kéo thòng cái đuôi định hướng XHCN để đỡ sỉ diện, duy trì quyền lực và kéo dài sự sống của kinh tế Quốc doanh nhằm vụ lợi băng nhóm? – nếu lỗ lấy công quỹ (tiền thuế của dân) bù, lời thì chia chác nhau như tập đoàn Vinashin hay tập đoàn Dầu khí chẳng hạn?

Thử đặt vấn đề: Đảng Cộng Sản Việt Nam có dám xóa kinh tế thị trường để trở lại con đường XHCN (tập trung bao cấp) cho đồng bộ hay không? – Ai cũng có thể trả lời rằng không. Bởi vì: đó là Con đường đau khổ mà nhân dân Việt Nam nói chung đã hứng chịu nhiều năm và Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng hú vía vì nó?

Vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm thế nào để hạ tầng và thượng tầng đồng bộ? Theo thiển nghĩ của tôi có 2 cách: Một, cải tổ chính trị, thực hiện dân chủ, đa nguyên chính trị, thiết lập Nhà nước Dân chủ pháp quyền: của dân, vì dân, do dân thay cho Nhà nước Đảng trị: của Đảng, do Dảng vì Đảng hiện nay. Hai, những người lãnh đạo tiếp tục lợi dụng chức quyền vun vén cho đầy túi tham, sớm trở thành những nhà tư sản đỏ. Khi thấy không còn vét gì được nữa, hô đằng sau quay là xong chuyện. Khi ấy con họ đi học nước ngoài thành tài về, có sẵn vốn mà cha mẹ chúng dày công tích góp được, cùng nhau đổi màu thành những nhà tư sản có vốn tư bản kết xù tha hồ mà chạy đua với thiên hạ, mặc cho những Đảng viên ngu trung, những người dân ngu muội ngã ngửa, coi như việc đã rồi, đành vậy!

Thiển nghĩ này của tôi, chắc cũng còn ai đó cho là suy luận mò, chẳng lẽ lãnh đạo mà chơi trò hèn hạ thế? Tôi sẽ nói thêm rằng, suy nghĩ của tôi là có cơ sở bởi vì: Suốt 30 năm, hàng mấy triệu người chết và bị thương cho cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ, vừa hoàn thành vế Dân tộc thì người ta không thực hiện vế Dân chủ, dám xây ngang cướp công, cướp quyền, xưng hùng xưng bá một thời thì việc này có gì mà không dám? – Hãy đợi đấy! Đoạn văn dần lân sau đây ngẫm cũng thú vị:

Chế độ cộng sản,
Kinh tế tư bản,
Hàng hóa nhập cảng,
Cán bộ tư sản,
Nhân viên chán nản,
Nhân dân di tản.

Bao giờ ông Võ Văn Kiệt cũng xem tôi là thằng em có tật gợi suy. Khi ông làm Thủ tướng, tôi nói vui với ông ấy: Nếu người nào đó hỏi tôi “Những ai chống Cộng bạo nhất?”. Tôi sẽ trả lời: “Những người chủ trương làm kinh tế thị trường”. Ông Kiệt vò đầu tôi cười nói: “Khéo gợi suy”. Cũng dễ hiểu thôi, vì tôi là quan mà không có quyền, đàng sau câu nói thường đặt dấu chấm hỏi (?) mang tính chất tham khảo.

Khi công cuộc đổi mới vào đà phát triển, cuộc sống người dân từng bước ổn định, nâng cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tâng công: Nhờ Đảng sáng suốt đổi mới…

Nếu nói Đảng Cộng Sản Việt Nam sáng suốt chủ trương đổi mới – tức là Cởi trói làm cho nền kinh tế phát triển, nhân dân thoát khỏi đói khổ… thì chúng ta thử đặt lại vấn đề: Trước đó ai chủ trương tróivà trói bằng cách nào? Xin thưa rằng cũng chính Đảng Cộng Sản Việt Nam trói và trói bằng cách cải tạo XHCN, gây khốn khổ cho nhân dân, kéo lùi sự phát triển đất nước? Trước sự phản ứng gay gắt của nhân dân, Đảng Cộng Sản Việt Nam buộc phải (không tự giác) đổi mới – tức là trở lại con đường cũ kinh tế thị trường. Nếu nói cởi trói (đổi mới) là sáng suốt thì trói là mù quáng? Đảng trói, Đảng mở đó là Đảng sửa sai. Để cho vui cửa vui nhà, nhân dân xem hành động đó của Đảng là lấy công chuộc tội – huề. Nghiêm khắc hơn, không dừng ở đó, phải truy cứu trách nhiệm của Đảng: Do Đảng sai lầm trong chủ trương cải tạo XHCN (trói) làm cho nhân dân đói khổ, kéo lùi sự phát triển đất nước suốt 10 năm (1976 – 1986) – công ít, tội nhiều.

Được Đảng Cộng Sản Việt Nam tha mạng cởi trói, dân cố tự bươi để có mổ và góp phần thuế má chớ Đảng có giúp gì đáng nói cho họ đâu?.

Việc xây dựng đất nước đàng hoàng hơn là do tiền thuế của nhân dân góp vào và 50.7 tỷ USD vay của quốc tế đến nay chưa trả được. Đáng nói tiền thuế dân góp và khoảng nợ 50.7 tỷ USD ấy Đảng quản lý hời hợt để lọt vào túi riêng, đó cũng là cái lỗi của Đảng? Đảng giành cho mình quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối thì Đảng cũng phải chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối?. Đảng phải chữa ngay cố tật:

“Thất mùa đổ tại thiên tai,
Được mùa do bởi thiên tài Đảng ta”.

5 – Nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do

Nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do là những đôi từ, xét về mặt ngữ nghĩa, chúng rộng hẹp khác nhau. Giải thích cho rạch ròi về chúng, đó là công việc của những nhà ngôn ngữ, nhà sử, nhà giáo… Người viết bài nầy thiên về góc độ chính trị, chỉ đá động đến chúng khi thấy cần.

Tổ chức chính trị gồm đảng nầy, phái nọ…, hình thành trong mỗi cộng đồng dân tộc ở mỗi quốc gia. Chúng chỉ là những bộ phận của dân tộc.

Thấy gì những khác nhau giữa các Đảng ở Mỹ và Đảng CSVN?

Ở Mỹ, đảng Dân chủ, đảng Cộng hòa… đó là những danh xưng như những cái mác (made) để phân biệt khi ra tranh và bầu cử. Đảng nhất định bầu chọn đại biểu của mình đưa ra tranh cử với đại biểu đảng bạn. Cử tri bỏ phiếu bầu trực tiếp. Người nào đắc cử làm Tổng thống. Tổng thống được quyền tổ chức lại chính phủ để thực thi những gì mình đã hứa với cử tri khi ra tranh cử. Tổng thống chỉ được tại vị không quá 8 năm của 2 nhiệm kỳ. Khi đắc cử làm Tổng thống phải vượt ra khỏi khuôn khổ cục bộ của đảng mình, nhân danh đại diện dân tộc mà lo việc nước, việc dân. Do dân chủ thật sự “từ dưới lên, từ dân mà ra rồi trở về với nhân dân”, nên việc chuyển giao quyền lực êm thắm.

Ở Việt Nam ta hiện nay chỉ có 1 đảng CS VN, theo chủ thuyết Cộng sản. Đảng cầm quyền không phải do dân cử mà do đảng CS VN đấu tranh giành và chiếm quyền. Do vậy, Đảng CS VN quyết không chia sớt quyền cho bất cứ ai (độc quyền). Đảng CS VN cầm quyền không niên hạn – cầm quyền vĩnh viễn nếu không bị thế lực nào đó lật đổ. Cầm đầu đảng cũng không có niên hạn, nếu cần thay thì Đại hội hoặc Hội nghị Trung ương đảng quyết. Độc đảng, độc quyền, đảng trị bắt nguồn từ đảng tự tạo quyền cho mình chớ không phải do dân giao như ở Mỹ. Từ đó, đảng CS VN nắm trọn quyền sinh át, ban phát quyền cho bên dưới theo hảo tâm. Do dân chủ hình thức, ban phát “từ trên xuống” theo kiểu độc tài đảng trị, mang sắc thái Phong kiến, nên việc chuyển giao quyền lực thường “nẹt lửa”.

Quyền do giành và chiếm được, đảng CS VN luôn ám ảnh có ai hoặc tổ chức nào đó đang rình rập giựt lại quyền – nằm mơ cũng thấy kẻ thù. Họ mang tư tưởng cục bộ, cá nhân, luôn tranh giành quyền lực với nhau, thích tâng bốc, đố kỵ phản biện, đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích đảng, đặt lợi ích đảng trên lợi ích dân tộc. Họ sẵn sàng hợp tác với bất kỳ thế lực nào, không phân biệt trong ngoài nước, miễn sao đảng họ, cá nhân họ được thủ vai toàn trị.

Nhân quyền do tạo hóa ban, dân quyền do dân ban, dân chủ ở VN do đảng CSVN ban.

Đảng CS VN không thích nói đến nhân quyền hay dân quyền, họ chỉ nói đến 2 từ Dân chủ. Chủ mà không có quyền thì coi như trớt lớt?. Không phải người viết cố tình chơi chữ đâu, thực tế nước VN ta đã và đang như vậy.

Đấu tranh đòi nhân quyền không thể nhân nhượng, nếu nhượng sẽ mất quyền làm người, sẽ rơi vào hàng động vật hạ đẳng.

Thà chết sướng hơn nếu độc lập mà không được tự do, đó chẳng khác con vật bị nhốt trong chuồng, tha hồ mà tự do ăn uống, ỉa đái… trong phạm vi cái chuồng đó?.

Đất nước độc lập thống nhất đã 37 năm (1975 – 2012), sao mà nơi nầy nơi nọ, người ta cứ đòi dân chủ mãi?! – Như đã nói, 30/4/1975 mới hoàn thành vế Dân tộc của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ, tức là mới loại được ngoại xâm. Lẽ ra phải thực hiện tiếp vế Dân chủ, có nghĩa là thiết lập Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đàng nầy, đảng CS VN nhận lớp bước Dân chủ, thành lập bộ máy chính quyền Chuyên chính vô sản – một nhà nước Đảng quyền: “Của đảng, do đảng, vì đảng” cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Vậy là đảng CS VN còn nợ nhân dân VN món nợ dân chủ – một vế của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ đầy máu, mồ hôi và nước mắt của cả dân tộc suốt 35 năm (1940 – 1975).

Đòi dân chủ tự do như thế có quá đáng không?. Hãy xét xem: Các nước phát triển Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức… họ có dân chủ đâu, còn ở VN ta nào là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, độc lập tự do hạnh phúc”. Đó là chưa nói Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đều đầy ắp: Tự do chính kiến, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do thân thể, tự do hành nghề, tự do biểu tình theo luật định… như thế còn chưa đủ sao (?!).

Xin thưa rằng, về hình thức, như thế đã quá đủ. Nhưng xét về nội dung thì rỗng. Bởi vì, dân chủ ở VN ta là dân chủ XHCN, tức là dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CS VN, nằm trong cơ chế bao trùm:“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Đảng CS VN đã đưa quyền của mình vào điều 4 Hiến pháp: “Đảng CS VN là đảng duy nhất, lãnh đạo Nhà nước và Xã hội một cách trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối”.

Riêng về việc nầy, Đảng CS VN đã nói và làm một cách triệt để: Ngay từ đầu, đảng nhanh chóng thành lập Nhà nước Đảng quyền theo thể thức “Đảng chọn Dân bầu” – Đảng chọn (cơ cấu nhân sự) gần như toàn bộ là đảng viên của mình ra ứng cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, làm động tác giả, đưa sang Mặt trận đánh bóng một chập mới đưa ra dân bầu. Khi bầu, buộc cử tri phải bầu theo nguyên tắc“bầu đúng, bầu đủ” – đúng là đúng người có đức có tài, đủ là đủ số lượng theo quy định. Ôi trời, số người đưa ra thì hạn hẹp, toàn là “bầu eo bí sượng”, đức hèn, tài mọn, cấp bằng học vị của họ phần lớn là bằng thật học giả, đa phần là bằng chính trị…. Phận làm dân, thôi thì bầu đại cho qua chuyện!. Thế là kẻ cơ hội thất đức, bất tài có cơ hội chui vào bộ máy công quyền tha hồ mà tác oai tác quái. Họ có làm bậy, cư tri cũng không có quyền bãi miễn họ, vì đảng chọn và đưa họ vào ghế quan chớ đâu phải cử tri. Họ như quan Thừa sai thời Pháp thuộc được cử đến cai trị đám dân đen. Tiền đồ của họ thế nào đều do đảng cấp trên họ định, họ chỉ ngán cấp trên của ho thôi, họ xem cử tri như những thảo dân thấp kém. Nếu dân chịu không xiết kêu than về họ thì đảng đổ: Cũng do mấy người bầu ra đó chớ ai?!

Về việc bầu bán nầy, nếu dân chủ thật sự thì cử tri có quyền tất cả các khâu: đề cử, ứng cử, bầu cử và bãi miễn.

Trước thực trạng dân chủ ở nước ta như vậy, xin cho phép người viết thủ vai trọng tài để nhìn xuống nói rằng: Cương lĩnh của đảng CS VN và Hiến pháp nước CHXHCN VN đã khẳng định dân chủ ở nước VN ta là dân chủ XHCN – Dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CS VN, đảng cho gì nhận nấy theo kiểu xin – cho. Không xin, chưa cho mà làm ẩu liệu hồn. Hãy nhìn vào bảng to trước trụ sở Công an 44 Yết Kiêu Hà nội thấy câu “Công an chỉ biết còn Đảng, còn mình”. Thế là Công an đã tự nhận mình không còn là Công an Nhân dân, mà là Công an của đảng. Công an đang kiên quyết bảo vệ Chuyên chính Vô sản. Có lẽ từ đó, trong dân gian xuất hiện câu “Công an vì đảng quên Dân, vì thân phục vụ”.Ngước lên nói rằng: Người ta đang đòi nợ máu, nước mắt, mồ hôi… đã đổ trong công cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ suốt 35 năm (1940 – 1975). Đảng CS VN nhận lớp Dân chủ, có nghĩa là đảng CS VN còn thiếu nhân dân món nợ ấy. Xin hãy nhìn vào những nghĩa trang và những người thương binh tật nguyền ngoài xã hội để tính giá trị món nợ ấy:

Biết bao người đi rồi đi mãi,
Biết bao người tật nguyền đang sống với chuỗi ngày dầu dãi nắng sương,
Không ít người đang bị cầm giam trong bốn bức tường, bởi can tội đòi dân chủ. – Nợ thì phải trả, không xù được đâu?

Thử đặt vấn đề: Ai đưa ra cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”?. Ai cũng có thể trả lời, đó là Đảng CS VN. Ấy thế, sao mọi bê bối trong xã hội, Đảng CS VN đều đổ cho cơ chế?. Cơ chế ấy đã và đang gây khốn khổ cho nhiều người, tại sao Đảng CS VN chưa chịu từ bỏ nó?. Cũng dễ giải thích thôi, vì nó gây khổ cho nhiều người chớ phải đâu cho mọi người.

Có lẽ nhìn vào sự vận hành của cơ chế và thể chế chính trị của Đảng CS VN, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu khắc họa:

Đảng chỉ tay
Quốc hội giơ tay
Mặt trận vỗ tay
Chính phủ khoanh tay
Quốc doanh ngửa tay
Tội phạm ngoặc tay
Công an còng tay
Trí thức phẩy tay
Quan chức đầy tay
Dân trắng tay.

Ông Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước VN, cán bộ cao cấp của Đảng CS VN khẳng định: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Ông Triết nói thế có nghĩa: Đảng CS VN muốn tồn tại chỉ còn mỗi cách là “phải tiếp tục chuyên chế?”. Nếu vậy thì Đảng CS VN cố duy trì quyền lực để tồn tại trong nỗi bất hạnh của người dân?!.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét