Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

VIỆT NAM THẤT THẾ VỀ MẶT CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ?




The Observer   


Tác giả: Shang-su Wu | Biên dịch: Trần Anh Phúc


Sự đầu tư đáng kể gần đây của Việt Nam vào khí tài quân sự là nhằm mục đích đối phó với một môi trường chiến lược đang biến chuyển. Nhưng liệu điều đó có tạo nên bất kỳ khác biệt đáng kể nào trong việc cân bằng lại sức mạnh quân sự của Trung Quốc ở biển Đông hay không?

Trong mười năm qua, Việt Nam đặc biệt tập trung các khoản đầu tư quốc phòng vào năng lực không quân và hải quân, bao gồm việc mua máy bay ném bom chiến đấu Su-30MK2, tàu ngầm Project 636, cùng với một số loại tên lửa và tàu nổi.

Những vụ mua khí tài này có thể cho thấy khuynh hướng của Việt Nam trong việc theo đuổi một chiến lược chống tiếp cận và phong tỏa khu vực (A2/AD – anti-access and area denial) nhằm ngăn chặn sự tiếp cận hoặc các hoạt động của nước ngoài trong lãnh hải của Việt Nam. Nhưng trước sức mạnh quân sự vượt trội của Trung Quốc, các vụ mua sắm quân sự của Việt Nam dường như không đủ để theo đuổi chiến lược A2/AD và có thể không đạt được mục tiêu như dự định.

Thứ nhất, tuy hoạt động giám sát là yếu tố mấu chốt cho chiến lược “phong tỏa” (denial), nhưng tiềm lực hiện có của Việt Nam cho việc giám sát hàng hải lại có nguy cơ dễ bị tổn thương. Hà Nội đã tăng cường ba loại máy bay giám sát hàng hải (DHC-6-400, M-28P và C-212) cho lực lượng không quân và cảnh sát biển. Tuy nhiên, các máy bay cánh quạt có tốc độ chậm dễ trở thành con mồi cho tên lửa không đối không tầm ngắn (beyond-vision-range missiles) của các máy bay chiến đấu Trung Quốc và cả tên lửa đất-đối-không (SAMs) tầm xa của các tàu nổi.

Mặc dù Hà Nội đã đưa vào hoạt động một vệ tinh viễn thám sử dụng công nghệ và bộ máy quản lý của Pháp, nhưng chức năng của nó cho các hoạt động phong tỏa có thể bị hạn chế. Vệ tinh viễn thám sẽ theo dõi thông tin địa lý và địa chất chứ không phải là thông tin tình báo theo chế độ thời gian thực về vị trí của các tàu Trung Quốc. Ngoài ra, lực lượng quản lý vệ tinh của Pháp có thể không hợp tác đáp ứng các yêu cầu quân sự của Hà Nội do chịu áp lực từ phía Bắc Kinh. Nếu những hệ thống giám sát trên không đó không thể tìm kiếm mục tiêu hàng hải trong chiến tranh, hầu hết các đơn vị không kích của Việt Nam sẽ cần phải tự tìm mục tiêu của mình và khả năng phân phối hỏa lực một cách tối ưu sẽ kém hơn.

Thứ hai, Việt Nam có số lượng hệ thống vũ khí tinh vi ít hơn so với Trung Quốc. Lực lượng tàu ngầm, tàu nổi và máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba và thứ tư của Việt Nam thậm chí chưa bằng một nửa so với của Quân khu Quảng Châu. Điều này khiến quân đội Việt Nam đối mặt với khả năng thua thiệt lớn hơn, cho thấy sự bất lợi nếu xảy ra một cuộc chiến tranh kiểu tiêu hao sinh lực địch. Tàu ngầm Việt Nam có thể vượt qua được các bất lợi nhất định do sự không cân xứng trong ngắn hạn nhưng sẽ gặp khó khăn trong dài hạn. Hạm đội Nam Hải của Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) cũng có thể triển khai tàu ngầm bên ngoài các căn cứ hải quân lớn của Việt Nam như vịnh Cam Ranh để giám sát hoạt động của tàu ngầm Việt Nam.

Thứ ba, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều mua của Nga một số hệ thống vũ khí tương tự nhau, như Su-30MK2, tàu ngầm Project 636 và tên lửa đất đối không S-300 PMU-1 SAMs. Nhờ việc mua trước và do kỹ thuật sao chép có tiếng của Trung Quốc, các lực lượng Trung Quốc đã có thể nắm bắt đầy đủ việc vận hành và đặc điểm của các hệ thống vũ khí này, trong khi Việt Nam lại không thể. Kết quả là, Hà Nội có thể mất đi một số yếu tố bất ngờ chiến thuật vốn được cho là sẽ bù đắp cho sự thua kém về số lượng của Việt Nam. Tóm lại, sự hiện đại hóa quân sự của Việt Nam có thể không đạt được mục tiêu chiến lược A2AD.

Cuối cùng, những hạn chế ngân sách trong nước cũng cho thấy khả năng tiếp tục các vụ mua sắm vũ khí quân sự lớn là khó xảy ra. Như vậy, Việt Nam sẽ khó có thể sở hữu tiềm lực đáng kể trong tương lai gần.

Tuy nhiên, dù nỗ lực về quốc phòng của Hà Nội có thể không ngăn chặn hiệu quả sức mạnh quân sự hùng hậu của Bắc Kinh, nhưng nó cũng mang lại một số giá trị chiến lược. Thứ nhất, Việt Nam có thể răn đe Trung Quốc tốt hơn nhiều so với trước đây. So với cuối thế kỷ trước, các yếu tố khiến Bắc Kinh cân nhắc không sử dụng vũ lực đối với Việt Nam hiện lớn hơn nhiều. Để đảm bảo một kết quả thành công, PLA sẽ phải triển khai nhiều đơn vị hơn để đối phó với quân đội Việt Nam. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều đơn vị sẽ làm giảm sự bất ngờ chiến lược và để lại ấn tượng về một Trung Quốc hung hãn hơn trong mắt cộng đồng quốc tế. Tương tự như Philippines – một quốc gia “tiền tuyến” khác đang phải đối mặt với áp lực chiến lược từ Trung Quốc – vốn đã củng cố nền quốc phòng của mình thông qua Hiệp định Tăng cường Hợp tác Quốc phòng (EDCA) với Hoa Kỳ, sự đầu tư quốc phòng đáng kể của Việt Nam có thể giúp nước này trở thành một con mồi khó xơi hơn đối với sự bành trướng hay hung hăng của Trung Quốc.

Thứ hai, việc hiện đại hóa quân sự của Hà Nội có thể đóng vai trò như một con bài mặc cả trong đàm phán về hợp tác an ninh với các cường quốc khác. Đầu tư vào quốc phòng của Việt Nam có thể cắt giảm chi phí can thiệp và đảm bảo cam kết của Việt Nam đối với khả năng tự phòng thủ thay vì phải phụ thuộc hoàn toàn (vào các nước đối tác). Điều này sẽ làm tăng khả năng Việt Nam nhận được sự răn đe mở rộng (extended deterrence – tức khả năng răn đe do một bên thứ ba cung cấp – NBT) hoặc can thiệp từ một bên thứ ba. Điều này sẽ giúp cải thiện cán cân quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng trong bối cảnh tiềm lực kinh tế và quân sự của Bắc Kinh ngày càng gia tăng, bên thứ ba có thể ngần ngại trong việc hỗ trợ Việt Nam do lo ngại phải trả giá cao cho sự đối đầu.

Nhìn chung, sự hiện đại hóa quân sự của Việt Nam đã không thay đổi đáng kể thái độ của nước này đối với Bắc Kinh. Bất chấp căng thẳng do các yêu sách lãnh thổ mâu thuẫn nhau, giới ra quyết sách của Việt Nam vẫn duy trì liên lạc với các đối tác Trung Quốc qua kênh đảng và các kênh khác. Cân nhắc đến mối quan hệ kinh tế song phương và khả năng quân sự yếu hơn, Hà Nội có thể vẫn duy trì giọng điệu thận trọng trong quan hệ với Bắc Kinh.

Shang-su Wu là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng, Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore.



Nguồn: nghiencuuquocte.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét