Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Thắng và bại

x

 

Kỷ niệm 10 năm chiến tranh Iraq, mấy tuần vừa qua, giới bình luận chính trị Tây phương bàn tán sôi nổi về vấn đề: cuối cùng, Mỹ đã thắng hay bại?

Nhìn chiến tranh Iraq như một trận đánh, đương nhiên là Mỹ thắng. Thắng rất dễ dàng. Quân Mỹ và đồng minh bắt đầu tấn công vào ngày 20 tháng Ba năm 2003. Đến ngày 9 tháng Tư, tức 20 ngày sau, họ đã chiếm được thủ đô Baghdad. Bên Iraq, có 9.200 binh sĩ bị giết chết; phía đồng minh, Mỹ có 139 và Anh có 33 binh sĩ bị tử vong.

Nhìn rộng hơn một tí, toàn bộ cuộc chiến tranh, từ lúc khởi chiến (tháng 3/2003) đến lúc rút quân (tháng 12/2011), cũng có thể nói Mỹ thắng. Mỹ chiếm được Iraq, bắt và treo cổ Saddam Hussein, đập đổ được chế độ độc tài, dần dần hình thành nên một chế độ dân cử tương đối dân chủ, và cuối cùng, rút quân ra khỏi Iraq một cách an toàn. Như vậy là thắng chứ còn gì nữa?

Thế nhưng, nhiều người vẫn cứ băn khoăn. Lý do đơn giản: Cần phải đặt cuộc chiến Iraq vào hai chu cảnh lớn: Một, trong một cuộc chiến tranh lớn hơn: chiến tranh chống khủng bố và độc tài; và hai, trong thế địa chính trị tại vùng Trung Đông.
Nhớ, tướng Tommy Franks của Mỹ đã đặt ra tám mục tiêu chính khi đánh Iraq năm 2003: “Một, chấm dứt chế độ Saddam Hussein. Hai, phát hiện, cô lập và tiêu hủy các loại vũ khí sát thương hàng loạt (mass destruction). Ba, tìm kiếm, bắt và trục xuất khủng bố ra khỏi Iraq. Bốn, sưu tầm tài liệu tình báo liên quan đến các mạng lưới khủng bố. Năm, sưu tầm các tài liệu liên quan đến mạng lưới vũ khí hủy diệt hàng loạt phi pháp trên phạm vi toàn cầu. Sáu, giải tỏa lệnh cấm vận và tiến hành tức khắc các cuộc viện trợ nhân đạo cho dân chúng Iraq. Bảy, bảo đảm an toàn cho các mỏ dầu khí và tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về nhân dân Iraq. Và cuối cùng, giúp người dân Iraq tạo điều kiện chuyển tiếp sang một chính phủ đại biểu do dân bầu để quản trị đất nước của họ.”

Không phải mục tiêu nào ở trên cũng được hoàn thành. Ngoài chuyện không có các loại vũ khí sát thương hàng loạt hay các mạng lưới khủng bố toàn cầu nào ở Iraq, thất bại chính của Mỹ không chừng là nằm ở mục tiêu cuối cùng. Sau khi Mỹ chiếm Iraq một cách dễ dàng, Iraq trải qua những năm tháng nội chiến triền miên. Khủng bố nối tiếp khủng bố. Chỉ riêng tại thủ đô Baghdad, người ta ước tính mỗi ngày có khoảng từ 11 đến 33 người bị giết chết trong các cuộc đặt bom ở các khu dân sự, kể cả chợ búa và đền thờ.

Về phương diện chính trị, các phe phái liên tục chống đối nhau. Đúng là Iraq đã bắt đầu xây dựng được một số nền tảng cho một chế độ dân chủ, tuy nhiên, tương lai chính trị của nước này vẫn đầy bất an.

Cái giá của cuộc chiến này khá cao. Về nhân mạng, 115.376 người Iraq bị giết chết từ năm 2003 đến 2011.

Về phía đồng minh, số binh sĩ bị chết của Mỹ là 4.488; của Anh là 179, của Ý 33, của Ba Lan 30, của Ukraine 18, Bulgaria 13, v.v.. Về tài chính, chi phí cho cuộc chiến tranh ấy, về phía Mỹ, là khoảng trên 845 tỉ đồng.

Chính vì vậy, nhiều học giả Mỹ đặt vấn đề: Một, liệu cuộc chiến tranh ấy có đáng không? Và hai, có thể xem là Mỹ thắng trận không?

Không có câu trả lời nào thật dứt khoát và thuyết phục hẳn. Eric S. Margolis, tác giả cuốn sách American Raj: Liberation or Domination? trả lời thẳng thừng: Mỹ thất bại. Fred Kaplan cho đó là một cuộc chiến tranh không cần thiết nhưng cũng cho rất khó trả lời câu hỏi ai thắng ai.

Christian Whiton, chủ tịch Hamilton Foundation, lại cho là Mỹ thành công, hơn nữa, hai lần thành công: vừa lật đổ được một chế độ được xem là độc tài và tàn bạo nhất thế giới vừa xây dựng được cơ sở cho một nền dân chủ lâu dài tại Iraq.

Một số người đề nghị chờ thời gian trả lời: Mỹ thành công nếu chính phủ dân chủ mới phôi thai ở Iraq càng ngày càng vững mạnh; ngược lại, Mỹ thất bại nếu nó sụp đổ và Iraq lại sống dưới chế độ độc tài như thời Sadam Hussein.

Gai góc hơn là vấn đề địa chính trị (geopolitics). Một trong những động cơ chính của Mỹ khi quyết định tấn công và xâm chiếm Iraq là biến Iraq thành một quốc gia dân chủ thân Mỹ, từ đó, biến nước này thành một trung tâm quyền lực của Mỹ để, một mặt, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các nước Hồi giáo Trung Đông, mặt khác, sẵn sàng trấn áp mọi cuộc chiến tranh chống Mỹ trong tương lai. Cả hai đều gắn liền với địa chính trị.

Tuy nhiên, ở cả hai khía cạnh này, dường như Mỹ không thành công, hoặc ít nhất, chưa thành công.

Thứ nhất, nền dân chủ ở Iraq còn rất mỏng manh và yếu ớt.

Thứ hai, do tính chất mỏng manh và yếu ớt ấy, Iraq cũng không thể đóng vai trò một căn cứ địa chính trị hay quân sự đáng tin cậy cho Mỹ. Sau năm 2003, Mỹ đã xây dựng Tòa Đại sứ tại Baghdad, một Tòa đại sứ lớn và tốn kém nhất của Mỹ với chi phí hơn 750 triệu trên một mảnh đất rộng trên 104 mẫu Anh, nơi, thoạt đầu, chứa đến 16.000 nhân viên, trong đó, có đến 2.000 nhân viên ngoại giao, với tham vọng xem đó như một đầu não ngoại giao và an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, với lý do nêu trên, tham vọng này dường như chỉ là một ảo tưởng.

Thứ ba, việc xâm lăng Iraq - nhất là việc không phát hiện bất cứ một thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq cũng như việc không thể tìm ra chứng cứ nào về mối quan hệ giữa Saddam Hussein và al-Qaeda vốn là những lý do chính được đưa ra để gây chiến - đã gây bất bình cho cộng đồng Hồi giáo tại Trung Đông.

Thứ tư, quan trọng hơn hết, cuộc chiến tranh Iraq dường như làm cho Iran, kẻ thù của cả Mỹ lẫn Iraq trước đây, mạnh hơn hẳn. Mạnh vì hai lý do: Một, đối thủ chính và nguy hiểm nhất của Iran là Saddam Hussein đã bị tiêu diệt; và hai, phái Shia, một giáo phái thuộc Hồi giáo đang cầm quyền tại Iran càng ngày càng phát triển mạnh, nắm rất nhiều quyền lực tại Iraq, thay cho giáo phái Sunni trước đây. Với sự thắng thế của phái Shi’ite, Iran có thể sẽ có một lực lượng đồng minh rất đáng kể ở Iraq.

Dĩ nhiên, vẫn có người phản bác các nhận định trên với lý do chính: Bất kể những thất bại ở lãnh vực này hay lãnh vực khác, Mỹ cũng đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh khủng bố vốn mở màn sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Lực lượng khủng bố, trên cơ bản, đã bị dẹp tan, không còn là một đe dọa lớn đối với Mỹ cũng như trên thế giới nữa. Vì thế, Mỹ có thể an tâm quay về với một đối thủ mới xuất hiện ở phương Đông: Trung Quốc.

Như vậy, cuộc bàn cãi về chuyện thắng hay bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq từ năm 2003 cho đến nay vẫn còn tiếp tục và có lẽ sẽ còn tiếp tục dài dài.

Thật ra, đó cũng là điều bình thường. Chuyện thắng hay bại là một vấn đề phức tạp hơn hẳn những gì chúng ta thường nghĩ. Thường, nghĩ về chiến tranh hay chính trị, chúng ta hay tự giới hạn mình ở một biến cố hay một sự kiện nào đó. Như một cái gì biệt lập và đơn lập. Trong khi, trên thực tế, bất cứ sự kiện hay biến cố nào cũng nằm trong một chu cảnh (context) với nhiều quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều và với nhiều kích thước khác nhau, từ kích thước địa chính trị đến kích thước lịch sử. Bởi vậy, không hiếm trường hợp thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh hay thua một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thắng một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại.

Thời Chiến tranh lạnh, Mỹ hòa ở chiến tranh Triều Tiên, và có thể gọi là thua, như nhiều người đã nói, cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng lại thắng trong toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh, nghĩa là thắng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Cũng có thể nói, phần nào, Mỹ thắng Liên Xô ở cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 1979 đến 1989. Dù hai bên không hề trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng ai cũng biết suốt thời gian chín năm ấy, Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ, từ Pakistan đến Anh, Saudi Arabia (và, kể cả Trung Quốc) đã đổ tiền giúp đỡ các kháng chiến quân người Afghanistan rất nhiều. Không những giúp đỡ tiền bạc mà còn giúp vũ khí và cả việc huấn luyện quân sự, bao gồm các chiến thuật du kích và, thậm chí, các phương pháp khủng bố. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, từ đầu năm 1987, Liên Xô quyết định rút quân: Giữa năm 1988, rút một nửa, đến đầu năm 1989 thì rút toàn bộ. Phe tự do hoan hỉ xem đó như một chiến thắng.

Nhưng chiến thắng ấy, oái oăm thay, lại mở đầu cho một thất bại của Mỹ trong trận chiến chống khủng bố: Một trong những lực lượng được Mỹ giúp đỡ và huấn luyện để chống lại Liên Xô thời ấy, sau này, đã trở thành một lực lượng Hồi giáo cực đoan mang tên al-Qaeda, trong đó có cả Osama bin Laden: Chính những người ấy, vào năm 2001, đã tổ chức cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp ngay trên đất Mỹ.

Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
 

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013


Năm ngày hấp hối của Stalin, kỳ 2
Wednesday, March 06, 2013 2:19:24 PM




(tiếp theo và hết)

Nguyên tác: Thierry Lentz
Thụy My chuyển ngữ

Ðến ba giờ sáng, tức hơn 20 tiếng đồng hồ sau khi Stalin bị tai biến, Beria và Malenkov mới đến nơi. Ông ta có vẻ như đang ngủ, những tiếng thở dốc của ông có thể bị lầm tưởng là tiếng ngáy.
 Ðến nỗi Beria ngỡ (hay làm ra vẻ như thế) là người ta đã quấy nhiễu ông ta vô ích. Beria quát mắng các cận vệ đang nài nỉ gọi bác sĩ... và bỏ đi, với Malenkov vạm vỡ luôn theo chân.
Có thể Beria đã hiểu rằng chúa tể của Liên Bang Xô Viết sẽ không qua khỏi nếu không được chạy chữa. Nhưng nếu không cố gắng cứu chữa cho Stalin thì vẫn hơn. Quyền lực đang bỏ trống, và tốt nhất nên nắm lấy. Trong những ngày tiếp theo, Beria và ba ủy viên “Bộ Chính Trị cơ động” tranh luận gay gắt để phân chia quyền hành, củng cố vị trí mình và giữ cho các đối thủ tiềm năng phải đứng ngoài cuộc. Do có bốn con cá sấu trong cùng một đầm nước thì cũng đã quá đủ, các cận vệ và người hầu cận ở Kountsevo nhận lệnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra... và để cho đồng chí Stalin yên ngủ.
Thế nên Lozgatchev và các vệ sĩ còn lại phải đơn độc bên cạnh ông chủ đang hấp hối. Thêm một ngày nữa trôi qua, mà không có bác sĩ nào được mời đến. Cuối cùng, các nhân viên của MGB và Maria Boutouzova, càng lúc càng lo lắng, cố gắng liên lạc lần nữa với Malenkov. Ông này xiêu lòng, bèn gọi cho Beria và Khrouchtchev, hai người này đùn đẩy sang Bộ Trưởng Y Tế Tratiakov. Rốt cuộc ông bộ trưởng cho gởi đến một toán y bác sĩ do Giáo Sư Loukomski dẫn đầu. Họ đến nơi vào lúc 7 giờ sáng ngày 3 tháng 3, tức 48 giờ sau khi Stalin gặp nạn.
Trước sự hiện diện của bộ tứ, và cả Molotov, Mikoian, Kaganovitch, Vorochilov rồi sau đó là Svetlana cùng với Vassili - con gái và con trai của Stalin - các bác sĩ, run rẩy vì sợ hãi, bắt tay vào công việc. Họ cởi quần áo bệnh nhân, gỡ bộ răng giả ra và chẩn đoán. Nhịp tim và huyết áp thấp, nửa người bên phải bị liệt, nửa người trái bị những cơn co giật.
Từ lúc đó, tiên lượng tỏ ra bi quan: Stalin bị xuất huyết não trái, nặng cho đến nỗi có thể chắc chắn rằng ông ta không bao giờ còn làm việc được nữa. Các bác sĩ kê toa sulphate magnésium (để rửa) và đặt những con đỉa sau tai trái. Rồi đáng sợ thay, đội ngũ hùng hậu ra đi, để lại một bác sĩ thần kinh, một bác sĩ đa khoa, một nữ y tá. Người bệnh được chỉ định là phải... nghỉ ngơi và ăn kiêng.
Vào cuối ngày, các thành viên Bộ Chính Trị trở về điện Kremli. Beria cảm thấy đang mọc cánh và bắt đầu với tay về phía vương trượng của “Sa hoàng đỏ.” Trong buổi chiều, Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng, Hội Ðồng Bộ Trưởng và Xô Viết Tối Cao họp lại để giải quyết vấn đề người kế vị. Như vậy là có ba trăm người được thông báo về tình hình thực tế. Vị lãnh tụ già nua được giải phóng khỏi nhiệm vụ tổng bí thư và chủ tịch Hội Ðồng Bộ Trưởng. Người ta không dám gạch tên Stalin khỏi danh sách các ủy viên Bộ Chính Trị.
Việc điều hành tạm thời được giao cho Malenkov, với Molotov (trở lại một cách huy hoàng), Boulganine và Kaganovitch làm phó. Vị trí người đứng đầu an ninh nội chính của Beria càng vững chắc hơn. Cùng với Malenkov và Khrouchtchev, ông ta còn được giao trách nhiệm “sắp xếp” các giấy tờ của Stalin. Ba người này lập tức bắt tay vào công việc, mở các rương giấy tờ bí mật nhất và hủy đi tất cả những gì tố cáo họ có tham gia các vụ thanh trừng trong quá khứ và hiện tại. Việc “phi Stalin hóa” như vậy đã bắt đầu ngay từ khi Stalin vẫn còn thở.
Nếu kể từ sáng 4 tháng 3 các đài phát thanh đã có thể công bố “căn bệnh” của Stalin, thì mức độ báo động đã được tăng lên : từ sáng sớm 5 tháng 3 radio loan báo mạng sống của Stalin đang “lâm nguy.”
Tại Kountsevo, Stalin dường như vẫn luôn ngủ trên chiếc ghế sofa, đôi khi có mở mắt, phát ra được đôi ba tiếng động nhưng không thể nào trả lời những câu nói được người ta thầm thì bên tai.
Liệu có lúc nào đó ông ta cảm nhận được những gì đang diễn ra, giữa hai cuộc họp ở Kremlin? Sau này con gái ông cho biết: “Có lúc ông bỗng mở mắt ra, nhìn bao quát những ai đang đứng xung quanh. Ðó là một cái nhìn khủng khiếp, hoảng loạn và giận dữ, chứa đầy nỗi kinh hoàng trước tử thần và khuôn mặt của các thầy thuốc không quen biết bao quanh. Ánh mắt ấy bao trùm lấy chúng tôi trong một chớp mắt. Rồi ông giơ bàn tay trái lên - có thể là ông chỉ cho chúng tôi điều gì đó trên cao, hoặc là ông đe dọa tất cả mọi người. Hành động này khó thể hiểu được.”
Lời kể của các nhân chứng cũng làm cho Vassili Stalin lo ngại. Là tướng Không Quân và có tiếng là nghiện rượu, anh ta hoàn toàn mất tự chủ và lên án bộ tứ đã “sát hại” cha mình. Cần phải nhờ đến sự quyết đoán của Vorochilov và những cử chỉ thân thiện của Krouchtchev để trấn an được anh ta.
Từ sự tuyệt vọng của người con trai không được sủng ái cho đến lời tuyên bố sau đó của một cận vệ tuy - không thấy gì nhưng khoe là biết tất cả, và đơn giản là cái chết của Stalin làm thỏa mãn được nhiều người, nảy sinh giả thiết nhà độc tài bị ám sát.
Ðiều này khó thể chứng minh.
Ðương nhiên là người ta lên án Beria, người đã được lãnh tụ giới thiệu với Roosevelt và nói rằng: “Ðây là Himmler của chúng tôi.” Nhưng thủ lãnh cơ quan an ninh nội chính, bị Stalin cho giám sát từ nhiều năm, khó thể có khả năng xúi giục một vụ khủng bố, nhất là hoàn toàn không có ảnh hưởng gì lên MGB và các gia nhân ở Kountsevo. Ngay cả nếu ông ta reo lên trước các nhân chứng là: “Tôi đã thắng được ông ấy!” vẫn không có gì làm căn cứ cho giả thiết nào khác, ngoài trách nhiệm trong việc đã để mặc cho sự việc diễn ra một cách tự nhiên, khi trì hoãn việc cứu cấp bệnh nhân.
Giải phẫu tử thi cho thấy cơn xuất huyết não ồ ạt đã trầm trọng thêm do thể trạng của Stalin: ông ta bị chứng xơ cứng tiểu động mạch não (đã được giữ bí mật trong nhiều năm). Với trình độ khoa học của năm 1953, ông khó thể qua khỏi một cuộc giải phẫu. Trong mọi trường hợp, sự nghiệp chính trị của Stalin như thế đã kết thúc.
Vào buổi sáng 5 tháng 3, 1953, Stalin dần bước vào cõi u minh: buồn nôn, khó thở, ói ra máu, trụy tim mạch liên tục, biến chứng ở tim và ngộp thở. Chính là trước một cử tọa đông đảo - gia đình, các nhà quý tộc đỏ, các nhân viên MGB, gia nhân và y bác sĩ, mà người “cha già dân tộc” rốt cuộc đã chịu trút hơi thở cuối cùng.
Lúc đó là 9 giờ 50 phút. Các đồng chí và các con ông hôn lên khuôn mặt đã tím ngắt. Beria quỳ xuống để hôn lên tay Stalin.
Thế giới biết tin về cái chết của Stalin vào sáng hôm sau. Làn sóng xúc cảm, những tiếng kêu khóc vật vã, những lời tán tụng mà cái tin ấy gây nên, ngày nay khó thể hiểu nổi.
Tại Pháp, Hạ Viện dành một phút mặc niệm. Jacques Duclos, quyền tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp kêu gọi các nhà máy ngưng hoạt động, tập hợp tại Vélodrome d'hiver nhằm “để tang” ! Tờ Le Monde bình luận trang trọng về “Cái chết của Thống Chế Stalin,” trong khi tựa chính của tờ báo cộng sản L'Humanité dài đến ba dòng nói về “Cái Tang Của Tất Cả Các Dân Tộc khi tưởng niệm đã biểu lộ tình cảm sâu sắc Ðối Với Stalin Vĩ Ðại.” Vài hôm sau, trang nhất của tạp chí Văn Chương Pháp đăng chân dung của người quá cố do Picasso vẽ, tạo ra một cuộc tranh cãi dữ dội và giám đốc tạp chí là Louis Aragon phải xấu hổ tự kiểm điểm.
Tại Liên Xô, nếu chỉ nói là sững sờ và đau buồn bao phủ lên 200 triệu con người từ nay bị mất đi lãnh tụ, thì hãy còn quá nhẹ. Sự xúc động còn có thể cảm thấy ở các gulắc, không chỉ vì cái tin này gợi lên hy vọng nơi những người tù. Hàng chục ngàn người khóc sướt mướt diễu qua trước cái xác ướp đặt tại đại sảnh của trụ sở các nghiệp đoàn ở Matxcơva, nơi từng diễn ra các phiên xử quan trọng.
Ngày 9 tháng 3, sau vụ chen lấn hỗn loạn trên đường phố gây ra hàng trăm nạn nhân, xác của Joseph Stalin được trọng thể đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng: lăng mộ tại Quảng trường đỏ. Ông ta được đặt cạnh Lênin - từ hơn ba chục năm qua Stalin vẫn được xem là “người nối nghiệp thiên tài của Lênin. Hệ thống tuyên truyền Xô Viết loan báo hôm ấy có 5 triệu người khóc lóc tiễn đưa Stalin trên các đường phố. Con số được thổi phồng này tuy vậy không làm giảm đi sự long trọng của đám đông tham dự tang lễ.
Vào tháng 3, 1953, hiếm ai biết được hay thậm chí nghi ngờ về mặt trái các tác phẩm của Stalin. Ông ta đã để lại phía sau nhiều máu và nước mắt nhất trong lịch sử. Không kể Ðệ Nhị Thế Chiến, Stalin đã làm cho ít nhất 20 triệu người chết do bị lưu đày, thanh trừng, ám sát cá nhân hay tàn sát tập thể, nạn đói. Những người chân thành khóc thương “người hướng đạo,” “cha già dân tộc,” “người bạn lớn nhất của trẻ em,” “người mạnh nhất và sáng suốt nhất” chỉ thấy nơi ông ta người lãnh đạo một cuộc cách mạng đã đưa nước Nga ra khỏi thời Trung cổ, và thắng được phát-xít với một cái giá bằng máu chóng mặt.
Chiếc khăn voan che đậy những tộc ác của “con quỷ đỏ” chỉ được vén lên từ từ. Nhưng cho dù nhiều tù nhân được trả tự do (trong đó có các chiếc “áo choàng trắng”), việc trừ khử Beria một cách thô bạo (tháng 12, 1953), báo cáo của Khrouchtchev (tháng 2, 1956), sự trình diễn ngắn ngủi của một chủ nghĩa bôn-sê-vich cởi mở và việc đưa xác ướp ra khỏi lăng (ngày 31 tháng 10, 1961), Liên Xô và nước Nga vẫn chưa chấm dứt được với Joseph Stalin.

 http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=162675&zoneid=271#.UTqb81dkZQU




(Nguồn: Diễn Ðàn X-Cafe)

Năm ngày hấp hối của Stalin (Kỳ 1)
Monday, March 04, 2013 4:25:52 PM




Năm ngày hấp hối của Stalin (Kỳ 1)

Nguyên tác: Thierry Lentz
Thụy My chuyển ngữ

LTS: Nhân dịp 60 năm ngày Stalin qua đời (5 tháng 3, 1953), xin giới thiệu bài viết mang tựa đề “Chiếc trường kỷ của quỷ sứ - Năm ngày hấp hối của Joseph Stalin” của Thierry Lentz, được đăng trong tập sách “Những ngày cuối cùng của các nhà độc tài” do nhà sử học tên tuổi Diane Ducret và nhà báo Emmanuel Hecht của tuần báo L'Express xuất bản tháng 10, 2012.

Ðộc đoán, tàn bạo và xảo quyệt, nhà độc tài của đất nước Xô Viết chết đi trong cô độc, như ông ta đã sống. Ðây là sự trả thù của số phận cho những tội ác khủng khiếp mà ông ta đã gây ra.
Tranh vẽ chân dung Josef Stalin. (Hình:MIKHAIL MORDASOV/AFP/Getty Images)
Stalin luôn đi ngủ rất muộn, và không có ai dám đánh thức ông dậy trước khi chính ông ta quyết định là ngủ như thế đã no nê. Từ các vệ sĩ, những người giúp việc cho đến quản gia, không ai có quyền bước vào phòng nếu không được gọi. Ông thường ngủ đến tận 10 hay 11 giờ sáng. Cũng như tất cả những gì liên quan đến ông ta, giấc ngủ của đồng chí Stalin là bất khả xâm phạm.
Ở tuổi 73, vojd (người hướng đạo, lãnh tụ) vẫn làm việc 15 đến 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Là tổng bí thư đảng và chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông lãnh đạo Liên Bang Xô Viết với bàn tay sắt, trong không khí thanh trừng thường trực. Ông nắm mọi thứ, muốn biết tất cả, đọc và ghi chú một lượng báo cáo khổng lồ, dự vô số cuộc họp, thảo ra các thông cáo, chỉnh sửa các bài báo, viết lại các sách về lịch sử và tiếp tục soạn thảo các lý luận chính trị. Stalin chỉ đạo cách xử sự, những quyết định của các đại sứ cũng như lãnh đạo các đảng anh em, và những ai không chịu nghe lời “tư vấn” của ông thì hãy coi chừng!
Tổng Bí Thư Tiệp Khắc Rudolf Slansky và hai người phó của ông đã bị treo cổ trước đó vài tháng vì đã quên điều ấy. Một chiến dịch tương tự cũng diễn ra ở Ba Lan, nhắm vào các phụ tá người Do Thái của Tổng Bí Thư Boleslaw Bierut. Xa hơn về phương Nam, những tay bắn tỉa của Stalin chuẩn bị ám sát Thống Chế Tito, nhà lãnh đạo Nam Tư dám vùng vẫy để thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Matxcơva.
Giữa bấy nhiêu âu lo và “dự án”, trong cái đế quốc mênh mông và bấy nhiêu nhiệm vụ, đôi khi Stalin cũng dành chút thì giờ cho những vấn đề nhỏ nhặt. Có khi chính tay ông viết thư trả lời cho một nhà giáo bất mãn với cấp trên, hay một công nhân đang cần một lời khuyên.
Theo thói quen thời trẻ và chủ trương đạm bạc của chính quyền Bôn-sê-vích, dù tự cho phép mình nhận vô số danh hiệu và huy chương, mang chức vụ thống chế và sự tôn sùng lãnh tụ tột đỉnh, Stalin vẫn ăn mặc rất giản dị, với những bộ quần áo đơn sơ, chiếc nón kết cũ và đôi giày bốt đã sờn. Ðôi khi ông mặc nguyên quần áo, ngủ quên suốt đêm trên chiếc ghế sofa. Tuy vậy ông không hề từ chối các nghi thức và đội ngũ cận vệ hùng hậu. Bởi vì đồng chí Stalin mắc bệnh hoang tưởng. Ông rất sợ hãi cái chết.
Ngay cả trong hành lang điện Kremli, ông ta chỉ di chuyển khi có cả một đội ngũ cận vệ đi phía trước và phía sau hộ vệ. Khi đi ra ngoài, ông sử dụng ba chiếc xe hơi, trong đó có hai chiếc nhằm đánh lạc hướng. Chỉ có những đầu bếp trung thành mới được nấu ăn cho ông, và các chai rượu đặt trên bàn phải còn nguyên nắp. Văn phòng của ông trong dinh thự chính phủ được coi như nhà ở thực thụ, một datcha (nhà nghỉ) rộng mênh mông và tiện nghi ở Kountsevo là những ngôi đền thánh được giám sát chặt chẽ, được bảo vệ bởi những cận vệ đã qua chọn lựa gắt gao, và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Stalin.
Nếu vào cuối ngày Stalin muốn giải trí một chút ở nhà hát Bolchoi hay trong phòng chiếu phim của điện Kremli, thì luôn có những người tâm đầu ý hợp trong chính phủ đi kèm. Bây giờ là Beria, Malenkov, Khrouchtchev và Boulganine, sau khi đã xa rời Molotov, Mikoian hay Kaganovitch. Nhóm này tạo thành một thứ “Bộ Chính Trị cơ động”, sau khi những phiên họp toàn thể của Bộ Chính Trị - thường gồm khoảng hai chục thành viên - ngày càng thưa thớt dần.
Những buổi tối như thế nhất thiết phải kết thúc tại Kountsevo, cách điện Kremli nửa tiếng đồng hồ. Từ đầu cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, lãnh tụ hiếm khi ăn tối và ngủ ở nơi nào khác, trừ những lúc đi nghỉ ở Sotchi. Về khuya, khi các vị khách đã quay về Matxcơva, Stalin nghỉ ngơi đôi khi ở một trong những căn phòng của mình, đôi khi trên chiếc ghế dài ở một trong những phòng khách.
Tối Thứ Bảy 28 tháng 2 năm 1953, hoạt cảnh bất di bất dịch ấy lại tái diễn. Suốt cả ngày tại Datcha, Stalin đọc các báo cáo, nói chuyện với các cận vệ, đi dạo trong khu vườn tuyết phủ rồi thư giãn bằng cách tắm hơi.
Nổi tiếng là người lực lưỡng và dẻo dai, thực ra các mạch máu ông đã lão hóa và bắt đầu cảm nhận được hậu quả. Tất cả những người thân cận ghi nhận là ông bỗng già hẳn đi từ khi chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên ít ai biết được là Stalin đôi khi ngất xỉu vì lao lực, ông bị thấp khớp và trầm trọng hơn là một chứng bệnh ở não đã ảnh hưởng đến tính tình của ông (vốn ngày càng tồi tệ hơn), gây ra những giây phút lú lẫn. Việc chẩn đoán này và lời khuyên của các bác sĩ là nên nghỉ ngơi, đã gây một tác động bất ngờ nơi vị lãnh tụ già nua: Các y bác sĩ giờ đây bị nằm trong tầm ngắm của Stalin.
Vào cuối buổi chiều, Stalin đến điện Kremli và gặp bốn đồng chí quen thuộc, trong đó có thêm Thống Chế Vorochilov - một trong số hiếm hoi những lãnh đạo quân đội còn được ông ưu ái, chứ không dám nói là cảm tình. Một cuộc họp khoảng hai mươi người chấm dứt hoạt động chuyên môn trong ngày. Sau đó sáu lãnh đạo cao cấp xem phim: Stalin tự cho là một chuyên gia về nghệ thuật thứ bảy, và ưa thích một bộ phim mà mọi người buộc phải khen ngợi.
Vào khoảng 23 giờ, Vorochilov trở về nhà trong khi những người khác đi đến Kountsevo, nơi một bữa ăn tối tuyệt vời với rượu vang ngon từ Gruzia đang chờ đợi họ.
Như thường lệ, đó là một buổi tối nghiêm túc và vui nhộn. Vị “Sa Hoàng đỏ” muốn có không khí vui tươi trong nhà, cho dù lúc đó có những ưu tư gì đi nữa. Người ta đề cập một ít về kinh tế, và nhiều hơn một tí về chiến tranh Triều Tiên. Nhưng chủ đề chính, giống như nhiều tuần qua, là một “âm mưu phản loạn” mới mà thủ lãnh không ngần ngại đấu tranh một cách cố chấp, hiệu quả như thói quen xưa nay. Một vụ thanh trừng mới đã được lên kế hoạch.
Lần này, “vụ mưu phản” được cho là một băng nhóm bác sĩ cầm đầu - nhóm “phản động” này là cánh tay vũ trang của “bọn vận động hậu trường quốc tế người Do Thái” được Hoa Kỳ giật dây. Và vì Stalin chưa bao giờ hà tiện về danh sách “bọn nổi dậy”, “kẻ phản bội” và những “con chó dại” khác mà việc trừ khử theo ông ta là cần thiết, số phận tệ hại nhất đang chờ đợi những nghi can chủ chốt. Tuy họ đều xuất thân từ những gia đình Xô Viết gương mẫu, nhưng có thể những “kẻ giật dây” người Mỹ gốc Do Thái đã thuyết phục được họ trở mặt, đầu độc những nhân vật ưu tú của cuộc cách mạng - mà theo điệp khúc của chính quyền thì đang trên đường chiến thắng.
Sau những vụ bắt giữ và hỏi cung đầu tiên, người ta chuẩn bị một phiên tòa công khai mới mà ai cũng biết sẽ diễn ra như thế nào. Các “thủ phạm” sẽ thú tội trước mặt mọi người, tiếp theo là màn luận tội mà các bị can đều xin được tha thứ. Và để trả giá cho tội lỗi: Một viên đạn bắn vào ót đối với kẻ cầm đầu, lao động khổ sai cho những tên hạng hai, vợ con, anh em ruột, anh chị em họ và bạn bè của họ. Thống chế kiêm tổng tư lệnh quân đội Boulganine phải chuẩn bị đưa đi đày hàng loạt người... và có thể đưa một phần lớn người Do Thái ở Liên Xô đi Kazachzstan, Uzbekistan hay đối với những người “nguy hiểm” nhất, tống đi Xibêri.
Người ta nêu ra kế hoạch này vào đêm 28 tháng 2 rạng 1 tháng 3, 1953 hôm ấy, với ly rượu trên tay. Ðối với bốn khách mời của Stalin, chủ đề khá là tế nhị. Họ phản đối chương trình trên không phải vì nhân đạo, mà vì lo sợ chính mình sẽ bị thất sủng. Thường là đồng lõa, họ thừa biết động cơ những vụ thanh trừng của Stalin: Luôn nhằm trừ khử - theo nghĩa đen - những người bị lãnh tụ cho là kẻ cạnh tranh với mình.
Beria và Khrouchthchev rất có thể sẽ trở thành các nạn nhân liên đới của vụ “áo choàng trắng”, theo chân Molotov - vợ ông này đã bị tra tấn trong một căn hầm ở Loubianka. Ðương nhiên là đêm đó cũng như những đêm khác, họ không dám nói trái ý ông chủ. Thời kỳ các hội nghị Bộ Chính Trị trong đó người ta có thể nói tương đối khác ý Stalin, đã qua lâu rồi. Từ nay, thậm chí họ còn không dám phiêu lưu ngay cả trong những cuộc chè chén hàng ngày ở Kountsevo - mà các khách mời biết rất rõ là lãnh tụ thường thay rượu vodka trong ly mình bằng nước lã, để có thể đánh giá ngôn từ của các người khách.
Vào khoảng 4 giờ sáng, Stalin tiễn chân các khách mời đến tận những chiếc Limousine của họ. Ông ta nhìn họ khuất dần, rồi trở về căn phòng ấm cúng, cho các cận vệ đi nghỉ, rồi thả người trên chiếc ghế sofa trong phòng ăn. Người ta đóng cửa lại. Ánh sáng trong ngôi nhà nghỉ lần lượt được tắt đi.
Mặt trời đã lên cao vào sáng ngày 1 tháng 3, nhưng datcha vẫn chìm trong im lặng. Các cận vệ chờ đợi được gọi vào. Thời gian trôi qua, nhưng không ai lo lắng cả. Lãnh tụ có thể đã thức dậy làm việc trong đêm, hoặc đang tập trung vào mớ hồ sơ. Ông có đầy đủ đồ ăn thức uống trong phòng. Có thể là ông không muốn ai làm phiền.
Tuy vậy đến chiều, tâm trạng lo ngại mơ hồ có thể cảm thấy nơi những cận vệ và phía người quản gia. Bất chợt vào khoảng 18 giờ, các nhân viên nhận thấy một chiếc đèn ngủ trong phòng ăn vừa được bật sáng. Họ sẵn sàng chờ đợi nhận lệnh. Nhưng mệnh lệnh vẫn chưa hề được ban ra.
Khoảng 22 giờ, một chiếc xe hơi của điện Kremli mang đến các thư từ và hồ sơ. Trưởng đội cận vệ trực hôm ấy, Lozgatchev, vẫn còn do dự nhưng rốt cuộc quyết định bước vào gian phòng ăn nhỏ. Khi cánh cửa được dè dặt mở ra (lãnh tụ rất ghét bị trông thấy đang mặc đồ lót), anh hiểu vì sao đã không được triệu đến trong ngày: Stalin nằm dài trên thảm trải sàn, mặc chiếc áo lót mình, còn chiếc quần pyjama thì ướt đẫm nước tiểu. Lozgatchev vội chạy đến và nhận ra Stalin vẫn còn sống, nhưng không nói được nữa. Ðại Tá Starotsine và quản gia Boutouzova được vời đến. Người ta đưa bệnh nhân lên chiếc ghế sofa, rồi chuyển sang một chiếc ghế dài khác trong phòng ăn lớn, thoáng khí hơn.
Chúng ta đang ở Liên Xô vào thời kỳ Stalin. Ngay cả trong thời điểm khẩn cấp như vậy, không có vấn đề đưa ra ý kiến cá nhân, ngay cả để làm những gì mà tất cả những người bình thường phải làm trong trường hợp tương tự.
Ðó là lý do vì sao thay vì gọi một bác sĩ - một việc có thể gây hậu quả xấu trong thời điểm bị cho là có vụ âm mưu phản loạn “áo choàng trắng” - trước tiên Lozgatchev gọi điện thoại cho thủ trưởng trực tiếp là người đứng đầu ngành an ninh quốc gia (MGB), Ignatiev. Ông này cũng tỏ ra thận trọng: Trong khi Starotchine gọi điện cho Beria và Malenkov, bản thân Ignatiev muốn núp bóng Krouchtchev. Ðến lượt Malenkov và Krouchtchev liên lạc với Boulganine. Cả ba muốn đá trái banh qua Beria, nhưng không gọi được cho ông này - có thể ông ta đang ở bên một trong những cô bồ nhí. Cuối cùng, đến một tiếng đồng hồ sau đó Beria mới ra lệnh: Ðừng làm gì cả trước khi ông ta đến Kountsevo.
(Còn tiếp)

 http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=162602&zoneid=271#.UTqbGVdkZQU


Nguồn: Diễn đàn X-Café