Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Miến Điện trong mắt ai

Tháng 3 năm 2011, sau hơn bốn thập niên cầm quyền, chế độ quân nhân tại Miến Điện lùi bước trước nguyện vọng dân chủ của nhân dân Miến. Tuy xuất xứ từ quân đội nhưng ông Thein Sein là vị tổng thống dân sự đầu tiên đã đặt nền móng cho những cải cách chính trị đáng ngạc nhiên cho đất nước ông. Những nền móng đó lúc đầu gây tranh cãi và nghi ngờ hơn là tin tưởng. Nhưng với thời gian, những cải cách ấy càng ngày càng trở nên sâu rộng. Vị thế của Miến Điện được nâng cao trên trường quốc tế qua việc tham chính của các thành phần đối lập, vốn là kẻ thù không đội trời chung của chế độ dưới thời tướng Than Shwe. Từng bước, tù chính trị được thả, tự do báo chí được khôi phục, kinh tế bắt đầu hồi phục khi các lệnh cấm vận khắc nghiệt được bãi bỏ.

Quan trọng hơn cả, ảnh hưởng của láng giềng Trung Quốc một thời đè nặng lên kinh tế, chính trị của đất nước này lần lượt bị đầy lùi trong êm thấm. Quan hệ Miến – Hoa một thời nồng ấm ở Châu Á khi chỉ trong hai năm 2010 đến 2011, “đầu tư từ Trung Quốc vào Miến Điện đã vượt mức 12 tỷ đôla, gấp 8 lần tổng vốn đầu tư của Trung Quốc vào nước này trong thời điểm từ 1988 tới 2009”, theo thống kê của báo JETRO của Nhật.

Chuyện gì đã xảy ra?

Bài báo “China didn’t see this coming” (Điều Trung Quốc không lường trước) của cây bút Chris Horton ngày 19/3/13 trên Thealantic.com cho thấy sự xích lại gần Trung Quốc không phải là ngẫu nhiên giữa hai quốc gia có một đường biên giới chung khá dài này. Bên cạnh đó, thế lực kinh tế của một lớp di dân người Hoa lâu đời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự mở rộng quan hệ giữa Miến Điện và Trung Quốc.

Sau năm 1988, một năm đẫm máu với các cuộc biểu tình của sinh viên, thanh niên, sư sãi và các tầng lớp dân chúng khác bị chế độ quân phiệt đàn áp khốc liệt, Miến Điện bị cấm vận ngặt nghèo. Từ một quốc gia giàu có trước đây có số lượng xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, nay trở thành một nền kinh tế lạc hậu, èo uột và chính trị bị cô lập. Miến Điện đã tìm đến với Trung Quốc như một vị cứu tinh, một chỗ dựa vững chắc để tồn tại, bất chấp mọi áp lực đòi hỏi dân chủ, tự do từ phía người dân.

Để tìm kiếm viện trợ kinh tế trong thời gian này, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang của Miến Điện đã cử Phó Chủ tịch Than Shwe sang Trung Quốc. Tháng 5 năm 2011, Tổng thống Thein Sein ký với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào một Hiệp ước hợp tác chiến lược, đánh dấu cao điểm của quan hệ hai nước tuy không “môi hở răng lạnh” nhưng rõ ràng là đầy triển vọng tốt đẹp. Đương nhiên các tầng lớp lãnh đạo Miến Điện phải chấp nhận sự hiện diện của Trung Quốc trong mọi lãnh vực kinh tế, chính trị để đổi lấy sự sống còn của chế độ càng ngày càng bị người dân xa lánh.

Nhưng thật bất ngờ khi vào tháng 9 năm 2011, Miến Điện đình chỉ dự án đập Myitsone trị giá 3,6 tỷ đôla của Trung Quốc tại bang Kachin, đông bắc Miến Điện dù công trình này đang thi công. Tổng thống Thein Sein đã giải thích lý do của quyết định này là “do ý muốn của người dân Miến Điện phải được tôn trọng”. Ít ai được biết nếu công trình này hoàn thành thì 90% lượng điện sẽ chuyển về Trung Quốc!

Lần đầu tiên lãnh đạo Miến Điện đã đề cập tới “ý dân” như một mệnh lệnh không thể chối bỏ. Điều này cho thấy giòng chảy của đấu tranh ôn hòa bất bạo động đã thành công. Mối quan hệ gắn bó giữa hai nước Miến – Hoa bắt đầu có sự rạn nứt trầm trọng và Miến Điện tỏ ra không còn muốn tiếp tục nằm trong vòng tay của Bắc Kinh như lâu nay.

Trong tháng 6/13, đài RFI đưa tin theo một nhóm chuyên gia của tổ chức Asia Society, một định chế tư vấn tại Mỹ "chính quyền Miến Điện đang có kế hoạch đàm phán lại hàng tỷ đô la hợp đồng trong lãnh vực khai thác tài nguyên, áp đặt các tiêu chuẩn môi trường và bài trừ nạn tham nhũng. Với kế hoạch cải tổ này, sau hàng thập kỷ được tự do tung hoành tại Miến Điện dưới thời tập đoàn quân sự, các công ty của Trung Quốc có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất”. Các thương nhân Trung Quốc từ nay sẽ không còn là những người tha hồ bòn rút tài nguyên khoáng sản của Miến Điện và tiếp tay làm giàu cho giới cầm quyền bản xứ nữa.

Trên trường quốc tế, sự xuất hiện của lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi và của chính Tổng thống Thein Sein ở Hoa Kỳ và Châu Âu đã khiến cho niềm tin của thế giới vào cuộc cải cách kinh tế - chính trị tại Miến Điện tăng cao. Cuộc viếng thăm của tổng thống Barack Obama vào tháng 11 năm 2012 đã nâng cao vị thế của ông Thein Sein và của cả lãnh tụ Liên đoàn vì Dân chủ Aung San Suu Kyi. Hình ảnh của một Miến Điện độc tài khắc nghiệt từ từ được gỡ bỏ và luồng gió hồi sinh của một nền dân chủ được trân trọng đón nhận như một phép lạ.

Mới đây, từ 14/7/2013 Tổng thống Thein Sein đã thực hiện một chuyến công du Âu Châu lần thứ hai. Lần này ông đến thăm Anh và Pháp là hai nước lớn có tiếng nói quan trọng trong Cộng Đồng Châu Âu. Để thúc đẩy quá trình cải tổ tiến lên, sự tìm kiếm hậu thuẫn chính trị, kinh tế đối với Miến Điện là điều hết sức cần thiết. Do vậy, trong một bài diễn văn sau khi hội kiến với thủ tướng Anh Cameron, Tổng thống Thein Sein đã tuyên bố: "Trước cuối năm nay, sẽ không còn tù nhân lương tâm nào ở Myanmar nữa". Ông nói thêm rằng “một ủy ban đặc biệt đang xem xét tất cả các trường hợp tù chính trị”.

Lời tuyên bố từ một vị đứng đầu nhà nước Miến Điện được công luận quốc tế đón nhận trong tin tưởng về chiều hướng đi lên càng ngày càng vững chắc của một cuộc cải cách sâu rộng từ hai năm nay. Vì đây không phải là lần đầu tiên mà đã nhiều lần, tù nhân lương tâm ở Miến Điện được thả sau khi lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi tự do. Nó đánh dấu một bước ngoặt lớn cho sự hoà nhập ngoạn mục vào cộng đồng dân chủ thế giới của một đất nước từng sống những năm dài dưới bàn tay sắt của chế độ độc tài khắc nghiệt nhất nhì Châu Á.

Thận trọng nhưng đầy quyết tâm, chính phủ dân sự Thein Sein đã khôn khéo thực hiện một tiến trình cải cách 7 bước thực sự mang lại hòa giải dân tộc, mà đỉnh cao là cam kết “thả toàn bộ tù chính trị trước cuối năm nay”. Cam kết này cho thấy chiều hướng cải cách ở đất nước này là không thể đảo ngược.

Biết đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, các tướng lãnh Miến Điện một thời cai trị sắt máu đã kịp thời quay về với dân tộc, đồng hành cùng thế giới dân chủ đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo lạc hậu.

Trong thời điểm hiện nay, những người Việt Nam còn quan tâm đến sự mất còn của đất nước mình, khi nhìn về Miến Điện không khỏi bùi ngùi so sánh…Một Miến Điện tự tháo gỡ ách độc tài, thoát vòng kềm toả của Trung Quốc để xây dựng lại đất nước trong sự tôn trọng dân chủ và nhân quyền. Một Việt Nam, sau khi được Mỹ bỏ rào cản cấm vận, được cả thế giới và các định chế tài chính quốc tế hỗ trợ mạnh mẽ với hy vọng thấy một Việt Nam thực sự đổi mới sau chiến tranh.

Nhưng cho tới nay, Việt Nam vẫn là một nhà nước vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất, là kẻ thù của internet trong nhiều năm, là nước bắt bớ và bỏ tù những người bất đồng chính kiến nhiều nhất và nặng nhất, đồng thời cũng là đất nước công khai tham nhũng dữ dội nhất. Sự lạm dụng pháp luật của một nhà nước luôn tự hào là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” càng ngày càng mang đậm tính áp bức thật nặng nề đối với mọi thành phần dân tộc yêu nước.

Trong suốt nhiều thập niên liền, tập đoàn lãnh đạo Việt Nam tiếp tục thần phục Trung Quốc như một chư hầu trung thành, tiếp tục chính sách biến Việt Nam thành một bộ phận trong đại gia đình Trung Quốc…Họ bất chấp đất đai của tổ tiên mất dần vào tay Bắc Kinh, chăm chỉ đàn áp những ai có thái độ chống Tàu.

Vì vậy, trông chờ Việt Nam tiến hành một cuộc cải cách chính trị từng bước như Miến Điện thật là một điều mơ hồ. Vì chưa bao giờ những người cộng sản Việt Nam nghĩ là họ sai lầm và cần sửa đổi, cũng như chưa bao giờ họ tỏ ra quan tâm đến quyền lợi đất nước và nhân dân. Họ có chăm lo, nhưng chỉ chăm lo cho sự tồn tại và túi tham vô đáy của các quan chức đảng!

Quân đội Miến Điện có thể quay lại với nhân dân vì họ xuất phát từ nhân dân. Nhưng một đảng lãnh đạo phát xuất từ Quốc tế Cộng sản như đảng CSVN thì sự “trở về” của họ phải đồng nghĩa với sự cáo chung của đảng.

Miến Điện trong mắt ai, vui cho nhân dân Miến mà buồn cho ai?


Ngô Đình Thu

Vụ xử án một giáo viên dạy văn

Tháng 7 21, 2013
Nguyễn Mạnh Tường
Trong đoạn trích sau đây, luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) thuật lại lời đối đáp giữa chánh án và bị cáo ở một vụ xử án mà ông cho là “quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay“. Theo lời kể của ông, “sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã ra lệnh để tòa kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy tác phẩm có tên là ‘Nỗi cô đơn’ (L’Isolement) của nhà văn người Pháp Lamartine“. Vị quan tòa này đồng thời là Tổng Thư kí Đảng Xã hội, phân bộ Hà Nội, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bị cáo là một giảng viên đại học tại Hà Nội, không đi theo kháng chiến. Ông bị tuyên án 4 năm tù. Đó là năm 1954.
Sáu mươi năm sau, không ai ở Việt Nam có thể bị tống giam vì giảng dạy Lamartine nữa. Đuổi một luận văn thạc sĩ về một nhóm thơ ngoài luồng khỏi môi trường hàn lâm chính thống là thành tích oanh liệt nhất mà các vị chánh án văn chương thời nay có thể đạt được. Dù sự ngu xuẩn và giáo điều thời nay vẫn giống hệt sự ngu xuẩn và giáo điều thời xưa, tôi tin rằng chính các vị này cũng không muốn bánh xe lịch sử quay lùi.
Phạm Thị Hoài
_____________
Chánh án: Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan, trong khi Đảng Cộng sản của chúng ta được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?
Bị cáo: Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng Cộng sản đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng Cộng sản đã dạy những điều như thế. Ngay cả nếu điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm xúc không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu những thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng Cộng sản, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng Cộng sản. Lời buộc tội duy nhất đưa tôi tới trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vững. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Ngoài ra, tôi sẽ rất vui nếu được biết là dựa trên điều khoản nào của luật pháp, những điều mà chưa bao giờ có, để các ông kết án tôi trước toà?
Chánh án: Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật Hình sự. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô đơn (L’Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã nghe theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản của chúng ta mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự do, Độc lập và Tự hào Dân tộc?
Bị cáo: Thưa ngài, tôi không học luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật Hình sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như ước mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.
Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản, nhưng tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương rởm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, mà làm vũ khí của những người đã bán rẻ lòng tự trọng để chắt mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả đó là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.
Vì vậy tình cảm mơ mộng, một trạng thái của tâm hồn, là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.
Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời sự kết án của ngài. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị Toà án Nhân dân xử mà bước ra khỏi đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng Cộng sản, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng Cộng sản. Nhưng tôi mong mỏi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.
Nguồn: Trích phần II (“Mỏm đá Tarpéienne”), chương 2 (“Ông quan tòa Việt Nam”) trong cuốn hồi kí Kẻ bị mất phép thông công của luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), nguyên bản tiếng Pháp Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel, do Nguyễn Quốc Vỹ dịch và đăng trên Thông luận năm 2009.

 http://www.procontra.asia/?p=2764