Phạm Chí Dũng
Ngân sách khốn quẫn và thực trạng một nửa nợ xấu liên quan đến
vụ án hẳn là nguyên do chính để Quốc Hội Việt Nam phải ra một bản nghị quyết về
kế hoạch tài chính, trong đó chính thức xác định không dùng ngân sách nhà nước
để xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước.
49%!
Trong lúc công ty quản lý các tài sản tín dụng (VAMC) khẩn
thiết kêu gào phải dùng ngân sách để “xử lý nợ xấu,” còn giới chuyên gia ẵm bồng
lợi ích phụ họa theo cách “không còn cách nào khác” và “để giải quyết dứt điểm
nợ xấu, có quốc gia phải dùng đến 10-15% GDP,” một bằng chứng về nguồn gốc nợ xấu
vừa hiện ra, húc đổ toàn bộ cơ sở luận của những kẻ chỉ muốn “lấy của người nghèo
chia cho người giàu.”
Tháng 10, 2016, một báo cáo của Ngân Hàng Nhà Nước chi nhánh
TP.HCM cho biết “nợ xấu vẫn còn nhiều tiềm ẩn rủi ro và việc xử lý nợ xấu còn
nhiều khó khăn. Nguyên nhân là nợ xấu liên quan đến vụ án chiếm tỷ trọng cao tới
gần 49% trong tổng nợ xấu. Đây là khoản nợ khó xử lý và phần lớn các khoản nợ
này vẫn chưa xử lý thu hồi được.”
Một trong những vụ án “người tốt việc tốt” mà đã khiến vài
ngân hàng thương mại bị trôi sông đến 5,000 tỷ đồng là vụ “siêu lừa” Huỳnh Thị
Huyền Như. Ai có thể và dám quyết định rằng những ngân hàng “bị lừa” như
Vietinbank và ACB sẽ được đền bù bằng chính ngân sách nhà nước và do đó bằng tiền
đóng thuế của người dân?
Hay vụ Phạm Công Danh cùng Ngân Hàng Xây Dựng với 9,000 tỷ
thất thoát, quan chức chính quyền nào sẽ dám khẳng định rằng dân sẽ phải nội tiền
nhiều hơn nữa để bù đắp cho nạn tham nhũng kinh hoàng trong giới cá mập ngân
hàng?
Chỉ riêng 3 ngân hàng có lãnh đạo bị bắt nhưng sau đó đã được
Ngân Hàng Nhà Nước ưu ái đến mức nghi ngờ khi mua lại với giá 0 đồng – Ngân
Hàng Xây Dựng, Ngân Hàng Đại Dương và Ngân Hàng GP – đã có tổng nợ xấu lên đến
vài chục ngàn tỷ đồng. Và tuy đã bị làm án,khả năng thu hồi số thất thoát do
tham nhũng là rất thấp.
Tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam lại quá tệ so với
mặt bằng chung trên thế giới. Nếu Việt Nam luôn bị Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế
(TI) liệt vào nhóm cuối của các nước trên thế giới về độ minh bạch nhưng lại đứng
ở top đầu về nạn tham nhũng, tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam chỉ
khoảng 8% theo số báo cáo, so với yêu cầu quốc tế ít nhất 30%.
Vấn nạn có thể trở thành quốc nạn “vỡ ngân hàng” như trên đã
khiến nợ xấu trong khối ngân hàng thương mại đang biến diễn thành khối ung thư
di căn giai đoạn cuối và rất có thể sẽ khiến chế độ phải “hạ cánh cứng.”
Và đó cũng là lý do chủ yếu để khẳng định rằng một khi giới
quan chức ngân hàng và quan chức nhà nước phải kêu gào “dùng ngân sách để xử lý
nợ xấu,” tình thế đã trở nên vô phương cứu chữa.
$25 tỷ!
Một trong những quan chức tỏ ra nhiệt tình đột biến khi hô
hào phải dùng ngân sách để mua nợ xấu là ông Trương Văn Phước – phó chủ tịch Ủy
Ban Giám Sát Tài Chính Quốc Gia.
Với nhận định “cần $25 tỷ để xử lý nợ xấu,” ông Trương Văn
Phước đã trở thành nhân vật thứ hai sau cựu Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn
Văn Bình, thừa nhận tình trạng nợ xấu đã vượt quá con số 500 ngàn tỷ đồng, khác
rất xa so với những báo cáo giả dối về nợ xấu chỉ chiếm khoảng 3% GDP hiện thời.
“Xử lý nợ xấu tới lúc này không phải hô khẩu hiệu suông, mà
cần tiền thực. Cần cả quan điểm và cả kỹ thuật thực,” ông Phước “hô khẩu hiệu.”
Viên phó chủ tịch Ủy Ban Giám Sát tính toán, để xử lý nợ xấu thì cần $25 tỷ, và
cần khoảng 180,000 tỷ để xử lý tài sản trong các tổ chức tín dụng trong 5 năm tới.
Ngoài ra, để thiết lập dự phòng rủi ro thì mỗi năm các tổ chức
tín dụng cần 40,000 tỷ đồng, tức là trong 5 năm cần 150,000 – 200,000 tỷ đồng.
Theo ông Phước, cần lấy nguồn tiền này từ người vay, khách hàng chia sẻ dự
phòng rủi ro, bên cạnh nguồn dự phòng rủi ro đang có là 126,000 tỷ đồng.
Nhận định trên được nêu ra tại Hội thảo Thách thức tái cơ cấu
nền kinh tế do Viện Kinh Tế Việt Nam tổ chức sáng 12 tháng 10, 2016.
Cần nhắc lại, con số nợ xấu khoảng 500 ngàn tỷ đồng đã được
Thống Đốc Nguyễn Văn Bình thú nhận vào cuối năm 2014 tại một phiên họp của Ủy
Ban Thường Vụ Quốc Hội, sau một thời gian dài cố gắng bưng bít. Trước đó, toàn
bộ số liệu nợ xấu được công bố của Ngân hàng nhà nước vẫn chỉ “khuôn” nợ xấu
vào khoảng 150 ngàn đến tối đa 200 ngàn tỷ đồng. Một quyết định của Ngân Hàng
Nhà Nước ban hành vào tháng 3, 2014 đã cho phép các ngân hàng thương mại được
giãn nợ và đẩy nợ xấu từ các nhóm có nguy cơ cao nhất (nhóm 4 và nhóm 5) lên
các nhóm cao hơn để tạm thời làm mất khái niệm nợ xấu.
Đến sát Đại Hội 12, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo
Ngân Hàng Nhà Nước tìm nhiều cách để ép nợ xấu về dưới 3%. Khi đó, các báo cáo
của chính phủ đều “đẹp” đến quái lạ.
Chỉ sau Đại Hội 12, mọi thứ mới thực sự tung tóe khi Ủy Ban
Giám Sát Tài Chính Quốc Gia và một số bộ ngành phải báo cáo thực về tình trạng
nợ xấu không phải chỉ 3% mà lên đến 17%.
Tuy nhiên, có “xử lý” được nợ xấu hay không lại là một câu
chuyện hoàn toàn khác. Công ty quản lý tài sản tín dụng (VAMC) sinh ra từ năm
2013, nhưng cho đến nay chỉ mới mua lại được khoảng 10% số nợ xấu từ các ngân
hàng thương mại, mà cũng chỉ mua bằng giấy tờ chứ không phải bằng tiền mặt. Rất
nhiều người đã nghi ngờ số vốn 2,000 tỷ đồng mà ngân sách cấp cho VAMC đã chỉ
được công ty này mang gửi ngân hàng lấy lãi sinh sống chức chẳng hề “tác nghiệp.”
Còn bây giờ, mọi thứ đang có vẻ vô phương cứu chữa. Một khi
VAMC và những bộ ngành liên quan như Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài Chính, cùng một
dàn chuyên gia nhà nước phải đồng ca bài “không có ngân sách thì không thể xử lý
nợ xấu,” có thể hình dung tình hình đã khốn khó đến thế nào.
“Nền kinh tế con tin”
Khốn quẫn đến mức mà ngay một chuyên gia trước đây có hơi hướng
phản biện sự thật về thực trạng kinh tế và có vẻ nghiêng về khuynh hướng dân
túy, nay cũng “uốn lưỡi”:
“Chúng ta không nên sa đà vào việc tranh luận có nên dùng tiền
thuế của người dân để xử lý nợ xấu hay không. Vấn đề cốt lõi là bài toán đánh đổi.
Nếu sử dụng 5% GDP để xử lý nợ xấu ngay bây giờ thì 5 năm sau, nền kinh tế thu
lại 10% GDP từ tăng trưởng thì đây là việc các nhà quản lý phải suy nghĩ. Nếu
không, nền kinh tế cứ như cỗ xe di chuyển chậm chạp, không có sức để bứt lên,”
lời của Tiến Sĩ Nguyễn Đức Thành, viện trưởng Viện Nghiên Kinh Tế và Chính Sách
– đại học quốc gia Hà Nội.
Một lần nữa kể từ năm 2011 khi chính phủ mới của Nguyễn Tấn
Dũng và Nguyễn Văn Bình thành hình, toàn bộ nền kinh tế và đời sống người dân bị
các nhóm lợi ích đồng hành cùng giới đảng bắt làm “con tin.” Cứu ngân hàng
chính là cứu kinh tế, nếu không cứu ngân hàng thì đất nước sẽ tàn mạt!
Còn với chuyên gia Bùi Trinh, người đã đưa ra luận điểm
“Dùng ngân sách để xử lý nợ xấu là lấy tiền người nghèo chia cho người giàu”
thì sao?
“Nợ là con số thật còn GDP là con số chưa đáng tin cậy. Thế
nhưng, hiện nay, hầu hết các nhà hoạch định chính sách và cả các tổ chức quốc tế
đều chỉ nhìn vào công bố tăng trưởng GDP để vui, buồn và bình luận.”
Và “Ở các quốc gia khác, họ lấy tiền ngân sách xử lý nợ xấu
là có thể được vì họ minh bạch. Trong khi đó tại Việt Nam, có ngân hàng và một
ông đại gia nào đó định giá các tài sản có khi chỉ 2 tỷ lên đến 20 tỷ. Vậy tại
sao lại bắt người dân trả nợ cho những ông này. Tiền ngân sách là tiền của dân
dù là tiền thuế hay tiền đi vay, không thể bắt người dân trả nợ cho cái mà họ
không nợ,” ông Bùi Trinh như nói một lần để chẳng bao giờ muốn nhắc lại sự tình
“khốn nạn” này.
Dấu hỏi còn lại là trong tương lai gần nào sẽ xuất hiện những
ngân hàng bể nợ xấu và phá sản hàng loạt?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét