Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như
thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt
Nam trước khi ra Biển Đông. May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một
phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền
hòa chảy vào Miền Nam.
Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng
con số 9 được coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là
rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long
Giang.
Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng
Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây
chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra Miền
Bắc và xuất cảng.
Khởi đầu gian khó
Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc, trên một phần ba
đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn.
Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy.
Hệ thống bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền
Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.
Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt,
cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều
bị hư hại.
Cho nên vào năm 1955, khi "Một Quốc Gia Vừa Ra Đời"
như báo chí Mỹ tuyên dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó
khăn khôn lường.
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên
viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại
một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu
1960, Miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa
kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết quả
có thể nói là vượt bực.
Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại
cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ
sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến trường.
Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy
nhưng hầu hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất
mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì ta phải
công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.
Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc
Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần
một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam.
Đoàn người này hoàn toàn 'tay trắng' - chúng tôi gọi là đoàn
người 'bốn không': không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn
ngoài nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc
làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng
nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy dạy cho
con em?
Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc
này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:
"Thưa Tổng thống,
Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới,
nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc
đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được điều
hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại."
Tái thiết và phát triển nông nghiệp
Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông
nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả
nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn.
Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2 triệu tấn (1939). Tới
1954 chỉ còn 2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm
1954 chỉ còn 520.000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng
trọt có tới 2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu
của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh
tác.
Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn
phí nhiều tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh rạch,
lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất cho
người nông dân.
Cải cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công
Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao
có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước
thì là vàng.
'Đất Nước tôi': đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai
chữ đất và nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh
giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông
dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.
Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ
Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.
Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất
là khi đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những
người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng bằng sông
Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là cao nhất ở vùng
Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một nửa diện tích canh tác,
trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.
Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng
hoảng xã hội rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền
địa. Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh tế,
bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ
phải ký hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn
thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất
cây lương thực tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm
1959, sản xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam
cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm 1960 cũng
đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.
Phát triển công kỹ nghệ và quy chế 'Quốc tịch Việt'
Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được
phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ nghệ
và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông nghiệp, chỉ có
một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt, thuốc lá, độc quyền thuốc
phiện.
Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và
khoáng sản. Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự
án chính: mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa - Trường
Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.
Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông
đưa ra quy định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số
sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc tịch Việt
Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời
gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp,
cho nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu trước
và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là để cho họ (vì
có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp.
Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở,
ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không
tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế má và
cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.
Hạ tầng cơ sở
Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến
và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội.
Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và
các tuyến hàng không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận
chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên tỉnh lộ,
hương lộ, đường thủy và đường hàng không.
Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000 dặm là
bê tông nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường hương lộ.
Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa
và canh tân. Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính
chạy từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải (nhiều
khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).
Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang
lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc,
đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.
Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Air Vietnam
- được thành lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các
phi trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Qui
Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú quốc.
Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem
Reap, Bangkok, Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm
bởi các hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal
Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.
Ngân hàng và tiền tệ
Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân
hàng thương mại để thay thế cho Banque de L'Indochine và các ngân hàng thương mại
Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành
lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân
hàng trung ương tân tiến.
Giáo dục và đào tạo
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong
việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển
giáo dục rất nhanh.
Tiểu học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu học công và 325
trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.
Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101
trường. Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới 5.000.
Đại học: trước năm 1954, Miền Nam không có đại học. Muốn học
cử nhân phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại học Sài Gòn, rồi tới
Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12.000.
Xem như vậy, thành quả của "Năm Năm Vàng Son
1955-1960" là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam.
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT
Diệm:
"Kính thưa Tổng Thống,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa,
nhân dân Miền Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực.
Tôi đặc biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn
1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều
hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức
thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo
vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ
tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước Cộng Hòa độc lập."
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát
triển.
Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn,
sinh sống trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày
lại thêm một bước tiến.
Image copyright Forum Trung Tam Asia
Image copyright Forum Trung Tam Asia
Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm
về thời gian ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau
ra tới tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều đến
ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.
Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít
lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng
Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên Đà Lạt.
Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới "Café
Tùng" hay "Phở Bằng" thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó
có thể diễn tả được.
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có
hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc
sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc bẫm,
chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam
trong thời gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài
hòa thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có thể ước mơ.
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ
nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với các nước láng giềng
lúc ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn.
Miền Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong
các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng thống
Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền Nam tới chỗ
vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ để trở thành một cường
quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa ("The First Day")
thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là
"một cuộc cách mạng đã bị mất đi" (the lost revolution) của Miền Nam
Việt Nam.
***
Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ
cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở
Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện
ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và The
Palace.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét