Đào Anh Dũng
Ông Đinh Thế Huynh (phải), Uỷ viên Bộ
Chính trị, đang là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Ngày 22/10 vừa qua, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trao Huân
chương Độc lập hạng Nhất cho cái gọi là "Hội đồng Lý luận Trung ương"
của họ, nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập hội đồng này.
Cùng thời gian, ông Đinh Thế Huynh, Chủ tịch hội đồng ấy có
chuyến công tác dài gần nửa tháng ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hai sự kiện có vẻ ngoài sáng màu ấy không che lấp
được sự thật tối màu là ĐCSVN đã và đang ở trong một cuộc khủng hoảng lý luận
kéo dài từ năm 1976, tới nay chưa thấy dấu hiệu khởi sắc.
Cần biết rằng họ quan niệm vai trò của lý luận như là ánh
sáng soi đường, như chiếc la bàn mà nếu không có chúng thì đảng, nhà nước và xã
hội sẽ loạn.
Lúc mới thành lập, họ có sẵn lý luận của Lenin để dùng; lúc
đánh Pháp đánh Mỹ, họ có thêm tư tưởng của Stalin, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai hỗ
trợ. Trong thời kỳ chiến tranh ấy thì vốn lý luận như vậy là đủ giúp họ giành
được chính quyền khắp cõi Việt Nam.
Quan hệ Việt - Mỹ: Hai bên sẽ đối thoại 'thẳng thắn'
Nhưng niềm vui sau năm 1975 lại ngắn chẳng tày gang, do nền
kinh tế ảm đạm trong nước, do cuộc chiến biên giới 1979 khốc liệt với người
"vừa là đồng chí, vừa là anh em". Có thể nói rằng họ bị dội nước lạnh
từ rất sớm; con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), cộng sản chủ nghĩa (CSCN) bỗng
chốc mịt mù, hiểm trở hơn họ tưởng.
Năm 1986 tới như một tất yếu: phải "mở cửa, đổi mới"
về kinh tế, như Đặng Tiểu Bình đã làm trước đó (1978) với Trung Quốc. Sự tan rã
khối XHCN ở Đông Âu (1991) đối với ĐCSVN chẳng khác nào giật phăng bàn tay người
lớn dìu dắt ra khỏi đứa bé còn đang chập chững tập đi. Chới với như người sắp
chết đuối bám lấy ngay cả cọng rơm, họ bấu víu vào cái gọi là "kinh tế thị
trường định hướng XHCN", còn gã hàng xóm to lớn phương Bắc cũng kịp vẽ ra
cái bánh mang "màu sắc Trung Hoa" mờ mờ ảo ảo hòng cầm cự càng lâu
càng tốt.
Có thể nói, suốt mấy chục năm qua, "thành tích" của
Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ là một cọng rơm ấy mà thôi. Vốn dĩ khái niệm
"XHCN" họ đưa ra đã là mơ hồ, mà Marx và Engels từng phân biệt tới
vài loại (phong kiến, tiểu tư sản, tư sản, "chân chính", không tưởng,
khoa học). Định hướng theo cái mơ hồ là mất định hướng, căn cứ vào cái mơ hồ là
vô căn cứ, lý luận có cũng như không. Còn thực tế thì trở thành "XHCN định
hướng kinh tế thị trường", cho nên cũng chẳng lạ gì khi ông John Kerry chỉ
nhìn thấy chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam.
Ngược lại quá khứ, ta thấy ông Hồ đánh giá khá cao vai trò của
lý luận, nhưng chưa bao giờ ông ấy cho thấy năng lực của một nhà lý luận tầm cỡ
vĩ mô theo kiểu Marx, Engels, Lenin.
Phó mặc công tác nghiên cứu lý luận về CNXH, CNCS cho các
lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc, cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" thực
ra chỉ tập hợp các quan điểm rời rạc về những vấn đề riêng lẻ của Việt Nam,
dành cho những nhóm đối tượng cụ thể, với văn phong rất "nôm na", nặng
về dạy đạo đức, chịu ảnh hưởng nhiều của triết lý Khổng, Nho.
Chính vì rời rạc, chưa được hệ thống hóa, chưa được luận giải
đến nơi đến chốn, nên rất dễ trở thành "siêu hình", không "biện
chứng", thành giáo điều cứng nhắc khi đưa vào thực tiễn.
Về hoạt động lý luận, ông Lê Duẩn có cố gắng hơn ông Hồ, văn
phong giống ba vị tiền bối kinh điển của CNCS hơn, và hoàn toàn không chịu ảnh
hưởng của triết lý Khổng, Nho.
Điểm chung của ông Hồ, ông Duẩn (ở đây phải kể thêm cả ông
Giáp, ông Đồng nữa) là mạnh về chính trị, quân sự song lại lúng túng, kém cỏi
khi quản lý, điều hành nền kinh tế.
Nguyên nhân khách quan, do chiến tranh liên miên khiến thời
gian đi sâu nghiên cứu bị hạn chế, do bất đồng ngôn ngữ khiến việc tìm hiểu các
trước tác của ba vị tiền bối kinh điển không được đầy đủ; nguyên nhân chủ quan,
đó là sự thụ động lẫn ỷ lại trong công tác lý luận của Bắc Việt khi Liên Xô và
Trung Quốc còn đang mạnh sau Thế chiến II.
Hệ quả là khi Trung Quốc quay lưng, Liên Xô sụp đổ thì các
lãnh đạo Việt Nam bị hẫng hụt nghiêm trọng. Họ chỉ còn cách nhào nặn Chính sách
kinh tế mới hay chủ nghĩa tư bản-nhà nước của Lenin, thành một món tạm thời
nhai được. Đồng thời, sau 30 năm "đổi mới" họ đã phải lùi bước ở một
số điểm quan trọng trong cương lĩnh, điều lệ của mình, chẳng hạn: vai trò của
kinh tế nhà nước, đảng viên làm kinh tế tư nhân, tỷ lệ nhà nước nắm giữ cổ phần
trong doanh nghiệp,...
Định nghĩa hiện nay của Đảng về XHCN không khác với cái xã hội
mà các nước tư bản chủ nghĩa khác đều đang hướng tới (công bằng, dân chủ, thịnh
vượng,... ), ngoài một điểm duy nhất: Đảng cộng sản ở vị trí lãnh đạo độc tôn.
Thực chất Hội nghị Trung ương 4
Để tạm thời an lòng dân chúng, họ đã vay mượn những khái niệm,
khẩu hiệu mà ba vị tiền bối kinh điển cho là mang tính chất "tư sản".
Họ bỏ qua vấn đề căn bản: sở hữu tư liệu sản xuất (đặc biệt là đất đai).
Đỉnh điểm của sự khủng hoảng lý luận hiện ra trong Cương
lĩnh 2011, ở đó họ đưa vào định hướng "đoàn kết, bình đẳng các giai cấp"
chứ không phải đấu "đấu tranh, xóa bỏ giai cấp" - một sự phản bội rõ
ràng, nghiêm trọng so với Marx và Engels!
Những yếu kém trong công tác lý luận mà Nghị quyết 37-NQ/TW
ngày 09/12/2014 của Bộ Chính trị đã kể ra (nếu nhắc lại ở đây sẽ quá dài) là có
thật.
Tính chất "không có tiền lệ, không giống ai" của
con đường quá độ từ xã hội tiểu nông lên xã hội CSCN, bỏ qua giai đoạn TBCN -
mà đầu tiên là ông Lê Duẩn, sau này nhiều vị lãnh đạo khác thừa nhận - cũng là
có thật.
Song liệu chúng có phải lý do chính đáng để phản bội Marx và
Engels, trong khi vẫn hùng hồn tuyên bố "lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền
tảng tư tưởng, hay không?
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét