Bùi Bảo Trúc
Nếu trở lại được Sài
Gòn (mà chắc tôi sẽ không bao giờ làm được) tôi sẽ đăng trên báo mẫu nhắn tin
nhắn như thế này:
“Tìm chiếc mobylette
mới đi được có hơn một năm, mất tại sân trường Chu Văn An năm 1962. Sẵn sàng
chuộc lại bất cứ tình trạng nào. Cam đoan không làm khó dễ. Xin liên lạc tại địa
chỉ sau đây...”
Đăng thì đăng vậy chứ
hy vọng tìm lại nó chắc không có được bao nhiêu. Tính từ đó đến nay là đã 54
năm. Bình thường chiều dài thời gian ấy nhất định là dài hơn đời sống của một
chiếc xe mobylette. Trong tình trạng lý tưởng nó cũng không thể sống lâu được
như thế, huống chi đã bao nhiêu chuyện vật đổi sao dời thì làm thế nào còn nó
được nữa. Tôi có nó từ mùa Hè năm đệ tam, sau khi đỗ (vớt) trung học phổ thông
vì quá dốt toán (từng oanh liệt rớt hai lần vì bị zéro điểm toán). Khi bảng
vàng (?) ghi tên rõ ràng ở nha khảo thí, tôi được ông bố dẫn đi mua nó ở đường
Minh Mạng như một phần thưởng vì đã có được cái bằng mà sau đó tôi cũng chẳng
buồn mang về nhà.
Tôi nhớ được ông bố
tôi dẫn đi mua nó ở một tiệm bán xe nằm trên đường Minh Mạng. Thời ấy mua xong
là có thể chạy liền, chẳng cần đăng bộ hay phải thi bằng lái gì hết. Xe cũng
không cần bảng số, cứ tự do phơi phới lôi ra chạy “rodage” cho máy... quen. Mỗi
tuần được phát 5 đồng đổ xăng để đi học (thì ít). Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.
Đi chơi nhiều, hết xăng thì vặn một cái nút gần pédale trái là... đạp như xe đạp
để đến trường. Trò này cũng được lôi ra dùng để tiết kiệm xăng phòng khi cần đến
để đi chơi.
Có nó được hai ngày
thì người bạn ngồi cạnh mang tới tận nhà kìm búa lắp vào cái porte bagage một
cái yên bọc trên cái yên simili cũ. Hỏi chàng sao lại tử tế như thế thì chàng
đáp một cách rất ngon lành rằng để chở chàng ... đi chơi cho êm. Sau đó, mỗi ngày
đi học, chàng đều gửi xe đạp của chàng ở gần nhà tôi để ngồi trên cái yên
simili chàng tặng (?) tôi, và chúng tôi đi học.
Trong ba tháng hè kế
tiếp, tôi dùng nó để đi học tiếng Anh với Frances Nolting, con của đại sứ Mỹ tại
Việt Nam. Thời ấy Sài Gòn còn an ninh lắm. Nhà nàng ở trên đường Hiền Vương, ra
vào dễ dàng, cho tới khi ông Nolting bị ám sát hụt thì chuyện học tiếng Anh của
tôi với Frances mới chấm dứt. Cái mobylette ấy cũng vài ba lần chở cô Mỹ ấy
trên yên sau chứ bộ. Hơn nửa thế kỷ rồi không biết bà già Frances có còn nhớ
cái lưng của người trai đất Việt ngày ấy không. Và cái yên simili chắc cũng đã
quên mấy cái váy đầm của con gái cụ sứ rồi.
Trở lại trường, phần
thưởng cho cái bằng trung học phổ thông đã cho hai chàng tuổi trẻ những buổi trốn
học huy hoàng nhất. Trò trốn học bắt đầu từ năm đệ tứ, qua đến năm đệ nhị thì
những tên học trò học dốt nhất cũng trốn học thành... thần. Những giờ toán, lý
hóa gần như thầy trò không bao giờ biết mặt nhau. Hai người trai thế hệ (?) có
mặt trong thư viện, bên xe bò khô, bò bía, tiệm sách Khai Trí, Phúc Thành, Việt
Bằng, Xuân Thu, hay bên kia cổng mấy trường nữ trung học nhiều hơn.
Nhớ mấy câu của Đinh
Hùng :
Ôi khoái lạc những giờ
trốn học
Những bình minh xuân
đẹp, những chiều thu
Bao cảnh nước mây đằm
thắm hẹn hò
Khi biếng gặp nhớ
nhung pha mầu áo...
Năm học đệ nhị qua đi
một cách dễ dàng. Cái mobylette đưa chúng tôi đi nhiều nơi khác kỳ thú nữa. Các
rạp chiếu bóng thường trực Vĩnh Lợi, Nguyễn Huệ, Casino Đa Kao... Những những
lúc trong một ngôi chùa ở Thủ Đức, những chiều ngồi trên bến sông Sài Gòn nhìn
qua Thủ Thiêm:
Vứt mẫu thuốc cuối
cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi
trên kè đá
Trời không xanh,
không tím, không hồng
Những ống khói tầu mệt
lả...
(Thanh Tâm Tuyền)
Từ chỗ chúng tôi ngồi
nhìn ra sông Sài Gòn là những chiến hạm của hải quân, mùi dầu, mùi nắng chiều,
những cây dừa nước quằn quại bên kia sông. Chúng tôi không biết phải làm gì
trong những ngày trước mặt. Hai câu thơ không biết của ai cứ trở đi trở lại mãi
trong đầu:
Tôi chẳng chờ ai, chẳng
đợi ai
Buồn hoang phong kín
tuổi đôi mươi...
Hai câu cũng chẳng
hay ho gì, nghe hơi rẻ tiền là đằng khác. Sau mùa Hè, chúng tôi trỏ lại với năm
cuối của trung học. Cái mobylette vẫn tiếp tục là phương tiện trốn học của
chúng tôi.
...Hỡi thành đô với
linh hồn bách thảo
Còn nhớ ta chăng, tuổi
trẻ tóc bay
Làm học trò nhưng
không sách cầm tay
Có tâm sự đi nói cùng
cây cỏ...
(Đinh Hùng)
Thỉnh thoảng những tiếng
động của chiến tranh đã bắt đầu vọng về. Kỳ thi tú tài I đã khiến một vài người
bạn trong lớp rời khỏi trường. Chúng tôi trở lại trường cho năm cuối của trung
học. Đang vui với cái tú ... đơn vừa cầm trong tay được hai ba tháng thì nó bỏ
tôi. Tôi cẩn thận khóa nó bằng hai cái khóa vậy mà sau khi học được hai giờ đầu
định trốn đi ngồi cà phê Brodard thì không thấy nó. Nghĩ một người bạn nào nghịch
phá dời nó đi chỗ khác, tôi đi kiếm nó ở khắp khu nhà xe cũng không thấy. Thôi
cũng như ông Tú Xương bị mất ô ở nhà cô đầu vậy:
...Sợ rồi rầy gió mai
mưa
Lấy gì đi sớm về trưa
với tình...
Thế là lại trở về với
chiếc xe đạp vậy. Cho đến sau kỳ thi tú tài 2 và sau đó tôi rời Việt Nam đi du
học.
Thỉnh thoảng tôi cũng
nghĩ tới nó. Không biết nó trôi giạt về đâu. Nó “sống” như thế nào. Nó bị / được
bán cho ai. Chủ mới của nó đối xử với nó ra sao. Nó có được một đời sống tử tế
không. Cái yên sau có được đỡ lấy một sự dịu dàng thân mến không. Hay nó trải
qua những ngày tháng nhọc nhằn của một kiếp xe lôi...
Còn người mở được hai
cái khóa lấy nó đi thì ông ta còn lấy đi niềm vui, lẽ sống của bao nhiêu người
nữa. Chắc ông cũng không cách nào nhớ nổi cái mobylette của tôi. Tôi không giận
ông nữa. Mong ông qua cơn túng thiếu chứ không dính vào những chuyện khác.Tôi mất
cái xe thì cũng mất vào tay của một người Việt chứ có đi đâu như một người đã
nói trong một truyện cổ tôi đọc đã lâu vậy.
Chuộc được nó tôi
cũng chẳng biết sẽ làm gì với nó cả. Cũng hệt như tìm lại được mối tình đầu ấy
mà. Nhiều lắm là nhìn nhau mà... lệ ứa là cùng. Có nói cũng không cùng mà
thôi...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét