Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

TS Lê Đăng Doanh: Tối hậu thư cải cách



Nam Nguyên, phóng viên RFA

Thách thức cải cách chính trị và kinh tế

Báo cáo Việt Nam 2035 vừa được Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim công bố trong cuộc họp báo sáng 23/2/2016 tại Hà Nội. Đây là sáng kiến chung giữa World Bank và Chính phủ Việt Nam theo đó Việt Nam sẽ phải thực hiện cải cách lớn ở ba trụ cột, thứ nhất là thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường. Thứ hai, Công bằng và hòa nhập xã hội có nghĩa bình đẳng cho mọi người và thứ ba là Nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước. Nếu thực hiện được những cải cách vừa nêu thì hy vọng tới năm 2035, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có thể đạt từ 15.000 tới 18.000 USD tương đương người Malaysia ở thời điểm 2010. Để đạt tới mục tiêu này Việt Nam sẽ phải vượt qua thách thức cải cách chính trị và kinh tế đồng bộ và sâu rộng.

Nam Nguyên phỏng vấn TS Lê Đăng Doanh, Thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển Liên Hiệp Quốc, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương trong khi ông đang dự một Hội nghị ở TP.HCM. Trước hết TS Lê Đăng Doanh phát biểu:

TS Lê Đăng Doanh: Sáng nay 23/2 Chủ tịch Ngân hàng Thế giới đã thắng thắn đề cập là Việt Nam cần phải mạnh mẽ nâng cao năng suất lao động, nâng cao sự sáng tạo hiệu quả và phải phát triển mạnh mẽ năng lực cạnh tranh. Muốn như vậy thì Việt Nam phải cải cách về mặt thể chế và nếu như những điều đó được giới lãnh đạo được Đại hội 12 đã bầu ra thực hiện, thì Việt Nam với tiềm năng của mình hoàn toàn có thể đạt được những tiến bộ như đã đề ra. Nếu như công cuộc cải cách không vượt qua được sự cản trở của nhóm lợi ích và không tự minh vượt qua được những ràng buộc mà mình tự buộc mình vào, tự hạn chế mình thì Việt Nam sẽ ngày càng bị tụt hậu xa hơn.

Sáng nay ông Chủ tịch Ngân hàng Thế giới cũng có nói, vào những năm 1960 người ta đánh giá Hàn Quốc là một đất nước không hy vọng gì, không xứng đáng để nhận bất kỳ một sự trợ giúp nào. Vậy mà bây giờ Hàn Quốc vượt lên như thế và bây giờ Việt Nam có thể lại đưa ra một chứng minh, một ví dụ điển hình là Việt Nam có thể vươn lên mạnh mẽ. Tôi nghĩ rằng, báo cáo đó là nguồn khích lệ và sẽ là một trong những thách thức rất là nghiêm túc để Việt Nam có thể vươn lên được.

Nam Nguyên: Theo tình hình sau Đại hội Đảng 12 và dưới quyền lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật được cho là rất bảo thủ thì liệu có thể chấp nhận những cải cách như thế này hay không, giữa khi Dự luật Biểu tình đã bị các Bộ ngành phản đối cho là đổi mới chính trị quá, mặc dù đây là qui định Hiến pháp. Như vậy vướng mắc của Việt Nam phải cải cách ở ba trụ cột có là thách thức phải thay đổi thể chế dân chủ hay không ?

TS Lê Đăng Doanh: Tôi thấy ông Đinh La Thăng làm Bí thư Thành ủy TP.HCM thì cũng tạo ra được một số đột phá nhất định. Tôi hy vọng rằng, trước những sức ép, trước những đòi hỏi mà năm 2016 này đã là những đòi hỏi rất là gay gắt. Chúng ta chứng kiến việc cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa, chúng ta đang chứng kiến hiện tượng khô hạn và xâm nhập của nước mặn đã gây tác động mạnh mẽ đến đồng bằng sông Cửu Long, thì tôi nghĩ trước tình hình này sẽ có những biện pháp rất mạnh mẽ đột phá để nâng cao năng lực của bộ máy, để phát huy nhân tài, phát huy sự sáng tạo, phát huy vai trò của các doanh nghiệp dân doanh. Tôi hy vọng trước các sức ép, dân tộc Việt Nam lại có sự vươn lên mạnh mẽ.

Nam Nguyên: Cải cách nêu ra ở cột trụ thứ nhất là thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường, cũng có đề cập tới những Bất cập về quyền sở hữu tài sản, bất công trong tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên và tiếp cận thông tin của người dân, đặc biệt vấn đề sở hữu đất đai. Theo TS những cải cách này có quá lớn không ?

TS Lê Đăng Doanh: Vâng, đúng là Việt Nam hiện nay cần phải bảo đảm qui định pháp lý rõ ràng hơn nữa về quyền tài sản đối với đất đai và người dân. Hiện nay người nông dân chỉ có quyền sử dụng còn quyền sở hữu thì đấy là sở hữu toàn dân. Nhưng mà sở hữu toàn dân là ai thì đấy là một trong những điều chưa được rõ ràng. Bởi vì sở hữu luôn luôn phải là một người cụ thể, một pháp nhân rõ ràng thì mới có thể thực hiện được quyền sở hữu đó. Chứ còn bây giờ toàn dân sở hữu thì điều ấy không rõ ràng. Ngoài ra việc bảo hộ các quyền về tài sản cũng là một trong những vấn đề lớn. Nếu như mà không có sự bảo hộ một cách rõ ràng về pháp lý quyền tài sản thì chúng ta thấy doanh nghiệp Việt Nam sẽ không lớn lên được. Người ta sẽ ngại trở nên giàu có, có nhiều tài sản, bởi vì nếu như những tài sản đó không được pháp luật bảo hộ một cách rõ ràng thì tài sản đó có thể bị xâm phạm bị mất đi. Đấy là những thách thức mà Việt Nam cần phải giải quyết trong thời gian tới.

Nam Nguyên: Thưa TS, có khả năng giải quyết vấn đề này hay không, khi vẫn còn vướng mắc như Hiến pháp vào kỳ sửa đổi 2013 đã không thực hiện được?

TS Lê Đăng Doanh: Trong công cuộc cải cách thì bao giờ cũng có những ý kiến khác nhau. Nhưng tôi thấy ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gần đây đã có những đòi hỏi rất rõ ràng và phía Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng có những đòi hỏi rõ ràng về Luật Biểu tình, cũng như là có những ý kiến về việc phải khắc phục bộ máy công kềnh, những thủ tục giấy phép… và ông ấy đã dùng những ngôn từ rất là mạnh mẽ. Tôi hy vọng rằng sau khi đã có những ý kiến khác nhau thì cuối cùng Hiến pháp 2013 sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng với tinh thần và lời văn của Hiến pháp là bảo đảm các quyền tự do của người dân về tự do ngôn luận, quyền biểu tình về những quyền như đã được quy định trong Hiến pháp.

Nam Nguyên: Thưa, nhiều chuyên gia đã từng nói không cải cách chính trị song hành thì không thể cải cách kinh tế. Có thể nào Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị hay không ?

TS Lê Đăng Doanh: Việt Nam đã cải cách kinh tế và cũng có một số chuyển biến nhất định trong cải cách chính trị, như vai trò của Quốc hội đã được tăng lên và đã có những nỗ lực nhất định trong hội nhập quốc tế. Nhưng bây giờ tình hình về hội nhập quốc tế đã trở nên rất cụ thể, như Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP đã qui định rất rõ về những quyền về Internet, về sự công khai minh bạch về sự cạnh tranh bình đẳng…. Và nếu như Việt Nam không thực hiện nghiêm túc những cam kết đó thì Việt Nam sẽ không được hưỡng những ưu đãi về mặt thương mại như giảm thuế quan...v..v..

Vì vậy vấn đề cải cách bây giờ trở nên một vấn đề hết sức cụ thể và bước đi cũng rất là rõ ràng chứ không phải là trừu tượng được. Ví dụ như theo Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP thì đến năm 2018 thời gian thông quan qua các cảng của Việt Nam là 48 tiếng đồng hồ. Trong khi đó theo Nghị quyết 19 của Chính phủ ngày 12/3/2015 thời gian thông quan là 10 ngày. Như vậy chúng ta thấy khoảng cách từ 10 ngày xuống 48 giờ là một khoảng cách khá xa và được qui định rất cụ thể rồi, cho nên Việt Nam cần phải cải cách một cách rất mạnh mẽ.

Nam Nguyên: Cảm ơn TS Lê Đăng Doanh đã dành thì giờ trả lời phỏng vấn.


Nguồn: RFA Tiếng Việt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét