Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không đơn giản. Quan hệ
Việt – Mỹ dù các cố gắng tăng cường, không thể tách hẳn đường lối các
chính sách ngoại giao của Việt Nam khỏi những nguyên tắc truyền thống. Từ
sau năm 1991, khi khối XHCN thế giới tan vỡ, Việt Nam theo đuổi con đường cải
cách, trong đó có chính sách ngoại giao độc lập trong đa dạng và đa hướng, với
quan điểm xây dựng một môi trường hợp tác và hòa bình với bên ngoài, tạo điều
kiện theo đuổi các lợi ích quốc gia như phát triển kinh tế, chủ quyền quốc gia,
duy trì chế độ độc đảng cầm quyền, phát triển kinh tế và xã hội. Nhưng
những nguyên tắc này thường được rút gọn lại bằng bốn chữ, “chế độ
và tăng trưởng”. Đó là những thứ mà lãnh đạo Việt Nam gọi là “nhị
bất biến, ứng với vạn biến”. Trước hết là chế độ, chống mọi thế
lực thù địch và âm mưu diễn biến. Tiếp đến là tăng trưởng kinh tế
nhằm tìm kiếm chính danh và sức mạmh đảm bảo ổn định cho chế độ.
Ưu tiên chế độ trở thành ưu tiên ý thức hệ dẫn đến
ưu tiên quan hệ Trung Việt. Sau ba mươi năm, quan hệ Trung Việt phát
triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, bề ngoài, có vẻ như chế độ có
một chân đế vững chắc. Không có gián điệp Trung Quốc gây bạo loạn,
không có Trung Quốc làm diễn biến hoà bình. Không có Mặt Trận kháng
chiến phục Việt do Trung Quốc giật dây, nuôi dưỡng. Không có “dân chủ
và nhân quyền tư bản”.
Nhưng, sau ba mươi năm, biên giới hầu như thông thương,
mọi thứ, cả con người lẫn phương tiện qua lại như anh em trong nhà,
không thể phân biệt ngay, gian. Rừng biên giới có người Trung Quốc rào
chắn, làm đường, đào hầm, lập làng, cưới vợ, gả chồng sinh con, đẻ
cái. Công ty Trung Quốc hiện diện ở khắp mọi nơi, thuê dài hạn và
chiếm những vị trí xung yếu, trên suốt chiều dài đất nước, đặc biệt
vùng đất hẹp miền Trung. Nền công nghiệp què quặt của Việt Nam, phần
lớn sản xuất bằng công nghệ lỗi thời của Trung Quốc, sử dụng nguyên
liệu nhập từ trung Quốc, sẵn sàng tê liệt khi mất nguồn cung từ Trung
Quốc. Người ta không thể quên, những lãnh tụ Trung Quốc từng tổng kết
rằng, có ba con đường để Trung Quốc mở rộng lãnh thổ, một là đồng
hoá các dân tộc trong cùng biên giới, hai là dồn dân tới các vùng
giáp ranh để lấn đất, ba là gây chiến tranh.Với Bôxít trên nóc cao
Nguyên, khu công nghiệp Vũng Áng trấn tại đèo ngang Hà Tĩnh, một khi
chiếm trọn Trường Sa, thì cả biển lẫn đất có nguy cơ không có cách
gì giữ được?
Chủ trương chế độ trên hết đã bộc lộ là một chủ
trương sai lầm. Càng gần Trung Quốc, càng phát triển rộng và sâu với
Trung Quốc, chính quyền Việt Nam càng mất dần khả năng kiểm soát đất
nước, chủ quyền biển đảo càng có nguy cơ không giữ được. Đây mới
chính là thực chất của mối đe dọa chế độ.
Việt Nam tìm kiếm trước hết sự hỗ trợ từ ASEAN, hy
vọng tạo ra được một tiếng nói chung khả dĩ đa phương hoá nguy cơ
chèn ép nước lớn của Trung quốc. Nhưng cộng đồng chung này chưa có
gì chung ngoài ý chí, thực chất đã bị phân hoá trước thủ đọan chia
rẽ bằng lợi ích kinh tế ích kỷ của từng quốc gia thành viên, trong
khi cộng đồng tồn tại với một cơ chế đồng thuận lỏng lẻo.
Nhật Bản là một lựa chọn. Việt Nam biết Nhật Bản,
với những ràng buộc chưa thể gỡ bởi luật pháp quốc tế đối với một
quốc gia nguyên tội phạm chiến tranh, không cho phép Nhật triển khai
một cách tự do tiềm lực quân sự và hỗ trợ quân sự các quốc gia
khác. Chưa nói, bản thân tiềm lực quân sự của Nhật bản dẫu mạnh,
vẫn chưa thể đối đầu với Trung Quốc. Nhưng Nhật Bản có một điểm đặc
biệt. Nhật không có đối kháng về thể chế chính trị với chế độ
cộng sản độc đảng. Nhật Bản không có yêu cầu nhân quyền kèm theo các
hợp tác kinh tế. Vì vậy, Việt Nam gắn kết toàn tâm bằng sự tin cậy
hoàn toàn với Nhật Bản. Nhật Bản là một quốc gia dân chủ và là
đồng minh đặc biệt của Mỹ. Quan hệ gắn bó và sâu sắc, tin cậy hoàn
toàn với Nhật bản, Việt Nam có cơ hội quen dần và thích nghi với
chuỗi giá trị khác với hệ thống giá trị truyền thống của chế độ
XHCN. Qua Nhật Bản, vốn từng là cựu thù chiến tranh, vì thế, cách
nhìn nhận một cựu thù như Mỹ đối với lãnh đạo cộng sản Việt Nam,
có phần bớt gay gắt.
Trước một thách thức lớn đến từ sự trỗi dậy, tiềm
tàng một tham vọng bành trướng mang tên “giấc mộng Trung Hoa”, biển
Đông có nguy cơ biến thành ao riêng của Trung Quốc. Khu vực biển có lưu
lượng hàng hoá luân chuyển gần 50% tổng lượng hàng hoá lưu chuyển
toàn cầu và trên 5000 tỷ đôla giá trị sản lượng hàng năm, tự do hàng
hải, tự do hàng không phía trên vùng biển và an ninh trật tự khu vực
có lợi ích gắn với lợi ích của Mỹ.
Sau tuyên bố Mỹ có lợi ích quốc gia với tự do hàng
hải và luật pháp quốc tế tại biển Đông của bộ trưởng Ngoại giao
Mỹ, bà Hillary Clinton năm 2010 tại ASEAN, Tổng thống OBAMA tuyên bố
chuyển trục chiến lược sang Đông Á.
Việt Nam vốn biết, đàm phán song phương với Trung
Quốc chỉ đem lại thất bại. Đàm phán là thủ đọan hoãn binh và trói
tay đối phương trên bàn, bằng mồi nhử kinh tế, để Trung Quốc lấn
lướt, một mình tự tung, tự tác trên thực địa, tạo ra việc đã rồi,
từng bước, từng lát cắt cho đến khi độc chiếm. Việt Nam tìm cách đa
phương hoá tranh chấp. Việt Nam tìm kiếm chỗ dựa, tìm hỗ trợ cho
cuộc chiến quá chênh lệch với Trung Quốc.
Và Việt Nam đã thấy ở chiến lược chuyển trục Đông
Á của Mỹ nhằm bảo vệ tự do hàng hải và trật tự an ninh khu vực theo
luật pháp quốc tế, có lợi ích ngăn chặn chủ nghĩa bá quyền của
Trung Quốc đồng nhất với lợi ích bảo vệ chủ quyền biển đảo của
Việt nam.
Tháng 7/2013, Việt Nam và Mỹ nhất trí nâng cấp quan hệ song
phương lên “đối tác toàn diện”, thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực, tạo sự
tin cậy gắn kết từng bước tới thực chất.
Cũng bắt đầu từ sau chuyến thăm Mỹ của ông Trương
Tấn Sang, Trung Quốc tăng cường trả đũa Việt nam bằng áp lực Hoàng,
Trường Sa. Hai nước Việt Mỹ càng tiến lại gần nhau, quan hệ hợp tác
giữa hai nước càng phát triển thì thái độ lấn chiếm biển đông càng
kiên quyết, tốc độ xây dựng và quân sự hoá theo hướng tăng cường khả
năng tấn công càng bộc lộ rõ. Dường như thông điệp mà Trung Quốc muốn
chuyển tới lãnh đạo Hà Nội là việt Nam không còn lối thoát bất
chấp mọi cố gắng tìm kiếm đồng minh.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Mỹ) nhận định
“nếu tình hình Trung Quốc quân sự hóa biển Đông không được can thiệp, biển Đông
sẽ biến thành ao nhà của Trung Quốc vào năm 2030.” Điều này có nghĩa là
không có can thiệp Mỹ, sau 2030, Việt Nam sẽ không còn biển? Nếu đường
lưỡi bò trở thành hiện thực, ra cách bở khảng 44km, Việt Nam đã lọt
vào biển Trung Quốc.(12 hải lý lãnh hải + 12 hải lý giáp ranh lãnh
hải), nếu không có phép, tàu thuyền Việt Nam sẵn sàng bị bắn hạ.
Báo Guardian (Anh) tuần trước dẫn lời Giám đốc Cơ quan An
ninh Quốc gia Mỹ (NSA) Michael Hayden cảnh báo nếu Mỹ không xử lý tốt đà trỗi dậy
của Trung Quốc trong 10 năm tới thì hậu quả sẽ là thảm họa với Mỹ và với cả thế
giới. Theo ông Michael Hayden, “Mỹ cần soạn ra một kế hoạch chặt chẽ và lâu dài
cho khu vực Thái Bình Dương trong thập niên tới và cả sau này”.
Mỹ đã có một chiến lược, đương nhiên. Nhưng điều
đáng quan tâm là Việt Nam ở đâu trong kế hoạch này? Việt Nam rõ ràng
không có nhiều lựa chọn.
Quan hệ Việt – Mỹ phát triển không ảnh hưởng tới các mối
liên hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Thay vì phải chọn một bên nào, Việt Nam
đang cố gắng hết sức để tăng cường quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ, và coi quan
hệ với hai nước này là quan hệ các bên đều có lợi.
Để công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Việt Nam coi trọng Mỹ
như nguồn chính về thị trường, đầu tư, công nghệ và phát minh sáng chế. Các nước
khác, trong đó có Trung Quốc, đều đã củng cố quan hệ với Mỹ vì lý do tương tự.
Tăng cường quan hệ Việt – Mỹ cũng đem lại cho Việt Nam các nguồn lực ngoại giao
và chiến lược mạnh hơn. Mỹ ủng hộ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc định
hình các cấu trúc an ninh khu vực tại Châu Á – Thái Bình Dương và hỗ trợ các
thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, xây dựng năng lực hàng hải để cải thiện
khả năng cảnh báo trong lĩnh vực hàng hải và các năng lực an ninh biển.
Tháng 9/2011, Việt Nam và Mỹ đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) nhằm
thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương trong 5 lĩnh vực, bao gồm an ninh hàng
hải, tìm kiếm và cứu hộ, các chiến dịch gìn giữ hòa bình của LHQ, các hoạt động
nhân đạo và cứu trợ thiên tai, và hợp tác giữa các trường đại học quốc phòng và
viện nghiên cứu. Trong chuyến thăm vừa qua, Tổng thống Obama đã thông báo dỡ bỏ
hoàn toàn lệnh cấm vũ khí sát thương đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, thúc đẩy quan hệ Việt – Mỹ, Việt Nam luôn nhấn
mạnh không đồng nghĩa với kiềm chế và chống lại Trung Quốc. Việc dỡ bỏ lệnh cấm
trên chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung cấp trang
thiết bị quân sự và đạn dược.
Hình ảnh độc lập của chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu
dựa vào chính sách quốc phòng, theo đó Việt Nam theo đuổi nghiêm ngặt “nguyên tắc
ba không” – Việt Nam sẽ không tham gia một hiệp định quân sự và trở thành một đồng
minh quân sự với bất kỳ nước nào, không cho phép bất kỳ nước nào lập căn cứ
quân sự trên lãnh thổ của mình, và không dựa vào bất kỳ nước nào để chống lại một
nước khác.
Gần đây, Việt Nam đang chịu sức ép trong nước phải xem lại
nguyên tắc này, tuy nhiên, việc kiên trì theo đuổi nguyên tắc này vẫn là cố
gắng trong chính sách của chính phủ Việt Nam, mặc dù giới lãnh đạo Việt
Nam thừa biết, không có sự can thiệp của Mỹ, Việt nam dẫu có quyền
mua vũ khí ở bất kỳ đâu, hy sinh thu nhập cho trang bị quốc phòng đến
mức nào, cũng không cản được bước tiến của Trung Quốc tới chiếm đọat
hoàn toàn.
Là một thành viên ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia các nỗ
lực của Hiệp hội trong việc thu hút tất cả các nước lớn thông qua các cơ chế hợp
tác do ASEAN đứng đầu, với chủ trương ASEAN không phải là một hiệp định quân sự
hay nằm dưới sự ảnh hưởng của một nước lớn nào, mà là một tổ chức thúc đẩy ngoại
giao để giải quyết những bất đồng.
Việc nghiêng về một bên nào đó là không hợp lý và không khả
thi, vì cả Mỹ và Trung Quốc, bất chấp những bất đồng của họ, đều đang phối hợp
dựa trên một quan hệ kiểu mới coi trọng việc tránh đối đầu quân sự, đồng thời
thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực.
Là một nước nhỏ theo dõi sát diễn biến trong quan hệ Mỹ –
Trung, Việt Nam không thể không lo ngại các kịch bản Bắc Kinh và Washington trực
tiếp đối đầu hoặc thỏa hiệp với nhau.
Lo ngại của Việt Nam không phải là không có cơ sở, vì lịch sử
đã cho thấy Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm trong quan hệ Mỹ – Trung
trong thời Chiến tranh Lạnh.
Vả lại Trung Quốc sẵn sàng làm mọi việc để đạt
được thoả hiệp với Mỹ, nhằm chủ yếu dạy bài học cho các quốc gia
nhỏ yếu khác. Một chính sách như vậy sẽ đẩy Mỹ đối diện với thử
thách không dễ vượt qua, khi Quốc hội Mỹ chỉ lựa chọn lợi ích của
người dân Mỹ.
Vì vậy, lựa chọn chính sách là bạn với cả Mỹ và Trung Quốc,
chủ động trong ASEAN, và tuân thủ các nguyên tắc toàn cầu của luật pháp quốc tế
cũng như các chuẩn mực khu vực đã được thiết lập về cách hành xử và bộ quy tắc ứng
xử, có thể là lựa chọn chiếm ưu thế trong các nhà lãnh đạo Việt
Nam. Sự cải thiện trong quan hệ Việt – Mỹ sẽ củng cố xu hướng này.
Nhưng liệu chủ trương này của Việt Nam có khả thi
không? Với Mỹ, dù không gắn kết bằng một hiệp định đồng minh, Việt
Nam vẫn có thể phát triển quan hệ đối tác toàn diện với đầy đủ sự
tin cậy và tôn trọng bình đẳng, căn cứ trên luật pháp quốc tế và văn
minh nhân quyền. Với Trung Quốc, ngược lại, quan hệ thân thiện hoặc
đối tác toàn diện chỉ đem lại thiệt hại. Ngay cả khi là đồng minh,
Trung Quốc luôn lợi dụng các hiệp định hợp tác để tạo ra sự trói
buộc và lệ thuộc tới mức Việt nam mất khả năng kiểm soát. Trong
trường hợp không còn là đồng minh, hoặc có biểu hiện ngả sang phía
đối thủ, Trung Quốc sẽ gây áp lực và đe dọa an ninh chế độ, nuôi lửa
xung đột buộc Việt nam phải chạy đua quốc phòng, dẫn tới tình trạng
chảy máu, kiệt sức.
Làm thế nào để chặn được tất cả các vòi bạch
tuộc đang len lách ở khắp mọi nơi. Cách ly hoàn toàn thì có nguy cơ
xung đột, gây đổ vỡ lập tức, không thể kịp ứng phó. Nhưng nếu không
cách ly, để ngỏ cửa, thì nguy cơ có thể đến chậm, nhưng cũng không có
cách nào ngăn chặn được.
Có thể phải lựa chọn cặp đôi với Mỹ, cho dù không
tránh khỏi những điều không thể tránh khỏi, nhưng nguy cơ mất nước
thì không.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét