Trương Thị Thanh Hiền & Vũ Thị Hương Giang
Nguồn: Lee Kuan Yew (2013). “Southeast Asia”, in L.K Yew,
One Man’s View of the World (Singapore: Straits Times Press), pp. 159-203.
INDONESIA: Dịch chuyển khỏi trung ương
Sự phát triển quan trọng nhất trong nền chính trị Indonesia
kể từ cuối thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Suharto là một sự phát triển không ấn
tượng một cách đáng ngạc nhiên. Nó không liên quan đến các cuộc biểu tình đường
phố ồn ào kêu gọi những thay đổi sâu rộng hay các kế hoạch táo bạo của chính phủ
để thay đổi nền kinh tế đất nước. Bạn không thể tạo ra một bom tấn Hollywood từ
điều đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng các sử gia, những người nhìn lại nhiều năm trước,
sẽ nhận ra bản chất rất quan trọng của nó. Sự phát triển mà tôi đang đề cập đến
chính là sự khu vực hóa, còn được gọi là sự phân quyền (hay phi tập trung hóa –
NHĐ).
Năm 1999, người kế nhiệm cương vị Tổng thống của Suharto,
ông B.J. Habibie, đã lặng lẽ ký thành luật việc chuyển giao quyền lực từ
Jakarta đến khoảng 300 huyện vốn hợp thành đất nước rộng lớn này. Các đạo luật
bắt đầu có hiệu lực trong năm 2001 và kết quả mang lại đầy ấn tượng. Với việc mỗi
khu vực tự chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình thông qua các quan chức
được bầu ở địa phương, đất nước như được hồi sinh. Sự phát triển kinh tế hiện
nay được trải rộng một cách đồng đều hơn. Quyền tự chủ địa phương cũng đã làm dịu
đi những áp lực từ chủ nghĩa ly khai và giúp đất nước đoàn kết như một. Một
Indonesia được phân quyền thịnh vượng hơn và có khả năng đạt đến tiềm năng đầy
đủ của mình hơn.
Trước khi ban hành các đạo luật này, Indonesia đã có một
trong những hệ thống chính trị tập trung nhất trên thế giới. Những quyết định
quan trọng về kinh tế được đưa ra tại Thủ đô bởi Tổng thống và Nội các của ông
và được thực hiện trên khắp đất nước bởi các quan chức và đại diện của chính
quyền trung ương. Tất cả mọi thứ đều được tổ chức thông qua Jakarta. Những nhà
đầu tư nước ngoài, kể cả những người đến từ Singapore, đã hiểu được các quy tắc
của trò chơi. Họ biết rằng lệ phí ban đầu để đầu tư thậm chí là cho những khu vực
xa xôi của đất nước đều được chi trả ở Jakarta. Tất nhiên, các khoản thu thuế
và lợi nhuận phát sinh từ việc khai thác những nguồn tài nguyên phong phú của đất
nước đã chảy ngược trở về Thủ đô, nơi mà sau đó đã quyết định cách thức những lợi
ích sẽ được tái phân bổ như thế nào.
Trong nhiều năm, hệ thống này đã có hiệu quả khá tốt dưới sự
lãnh đạo của Suharto. Là một quân nhân, Suharto đã kế nhiệm cương vị Tổng thống
của Sukarno năm 1968 và nắm quyền trong 3 thập kỷ kế tiếp. Thành tựu của ông phải
nói là ngoạn mục. Suharto kế thừa một đất nước khó khăn bởi lạm phát phi mã và
đang suy tàn với các điều kiện kinh tế nghiêm trọng. Ông đã thay đổi tình thế bằng
việc tập trung các nguồn lực của đất nước cho sự phát triển. Trong khi Sukarno
dành hết sức lực cho việc đấm vào mặt bàn trong các hội nghị quốc tế và cố gắng
làm cho Indonesia – và bản thân ông – trở thành người lãnh đạo của các quốc gia
đang nổi lên, Suharto hiểu rằng Indonesia không thể cất tiếng nói trên sân khấu
toàn cầu nếu không thành công trước tiên trong việc giải quyết các vấn đề trong
nước. Khi Liên bang Malaysia ra đời, Sukarno đã đưa ra khẩu hiệu Ganyang
Malaysia, có nghĩa là Đánh tan hay Nuốt chửng Malaysia. Suharto, với quyết tâm ổn
định các mối quan hệ quốc tế của đất nước, đã hạ khẩu hiệu này, chấp nhận
Malaysia như một nước láng giềng và công nhận rằng Sabah và Sarawak thuộc về
Malaysia.
Indonesia đã có những bước phát triển quan trọng trong khoảng
30 năm dưới thời Suharto, ông đã bổ nhiệm các nhà quản trị có trình độ và những
nhà kinh tế học nghiêm chỉnh để điều hành đất nước. Phải so sánh Myanmar và
Indonesia để có thể hiểu được tầm quan trọng của những đóng góp của Suharto.
Hai quốc gia đã có xuất phát điểm giống nhau về mức độ phát triển. Cả hai đều
là những đất nước trù phú và được điều hành bởi những nhà lãnh đạo quân sự. Tuy
nhiên, Tướng Ne Win của Myanmar, hay Miến Điện thời bấy giờ, đã đi theo con đường
Xã hội Chủ nghĩa. Nếu không có những chính sách cứng rắn nhằm thúc đẩy phát triển
của Suharto, Indonesia đã giống Myanmar. Suharto có thể đã thất bại vì tham
nhũng và chủ nghĩa gia đình trị. Nhưng lịch sử cũng sẽ đánh giá ông vì những
thành quả đã đạt được, tự chúng đã minh chứng điều đó: mang lại giáo dục cho
người dân, phát triển kinh tế và xây dựng giao thông và cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, hệ thống tập quyền mà Suharto dựa vào không phải
là lựa chọn tốt nhất để thống nhất một đất nước đa dạng như vậy. Đất nước
Indonesia được hình thành bởi 17.500 hòn đảo trải dài trên 5.000 km và là nơi
sinh sống của hơn 200 nhóm sắc tộc khác nhau. Trong những năm 1960, Goh Keng
Swee đã nhấn mạnh rằng sự tan rã cuối cùng của Indonesia gần như là “không thể
tránh khỏi”. Ông đã nhận ra các lực lượng đang hoạt động trên quần đảo này khó
có thể được mô tả như là đang chia sẻ một nhận thức bản sắc chung, dù là về
khía cạnh văn hóa hay lịch sử.
Ngôn ngữ là một nhân tố giúp ngăn chặn sự tan rã, và
Sukarno, dù có những sai lầm và hạn chế, có thể được khen ngợi về điều này.
Sukarno đã chọn tiếng Malay là quốc ngữ, không phải tiếng Java. Nếu muốn chọn
tiếng Java, ông đã có thể dẫn ra nhiều lý do thỏa đáng cho lựa chọn đó. Người
Java là nhóm sắc tộc chiếm đa số ở Indonesia. Ngôn ngữ của họ tinh tế với một nền
văn học lâu đời. Bản thân Sukarno cũng là người Java và Jakarta, thủ đô đồng thời
cũng là trung tâm kinh tế và văn hóa của đất nước, được đặt tại đảo Java. Tuy nhiên,
Sukarno hiểu rằng tiếng Java sẽ không liên kết đất nước, bởi vì nó đã bị xem là
tiếng nước ngoài ở nhiều nơi trên đất nước Indonesia. Những đảo khác sẽ xem nó
là một gánh nặng và điều này sẽ chia cắt đất nước. Mặt khác, tiếng Malay đã được
sử dụng rộng rãi như là ngôn ngữ thứ hai vì nó là ngôn ngữ của các thương nhân
và các thủy thủ, những người không chỉ đã đi khắp đất nước mà còn cả khu vực
Đông Nam Á. Ông đã chọn tiếng Malay và quyết định tất cả các trường học sẽ dạy
nó như tiếng mẹ đẻ, còn tiếng địa phương hay phương ngữ là ngôn ngữ thứ hai. Kết
quả là bất kỳ người nào phát ngôn ở Jakarta ngày nay đều được hiểu bởi người
dân ở khắp đất nước. Đó là một hành động đúng đắn và là món quà lớn nhất mà
Sukarno dành cho Indonesia.
Tuy nhiên, một ngôn ngữ chung duy nhất là không đủ. Suharto
còn duy trì đất nước thông qua một lực lượng quân sự hùng hậu, ví dụ ông đã từng
sử dụng quân đội để đàn áp các cuộc nổi dậy ở Aceh. Điều này chỉ mang lại ổn định
chừng nào việc sử dụng vũ lực còn có thể được duy trì. Nhưng vai trò của quân đội
đã thay đổi. Trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ Tổng thống, Suharto muốn vị
Tổng tư lệnh của mình, Tướng Wiranto, đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công
nhân. Tuy nhiên, Tướng Wiranto đã từ chối
vì ông hiểu những giới hạn của hành động quân sự. Khi Habibie kế nhiệm cương vị
Tổng thống của Suharto, đã có một nỗi lo sợ thật sự rằng hàng loạt các phong
trào ly khai trên khắp đất nước có thể lợi dụng tình hình chính trị thay đổi để
đòi độc lập.
Chính quyền Habibie đã quyết định rằng khu vực hóa là con đường
phải đi. Tuy nhiên, thay vì chuyển giao quyền lực cho khoảng 30 tỉnh, một điều
mà theo thời gian có thể khuyến khích một số tỉnh đòi độc lập, giới lãnh đạo
Jakarta đã đi tắt đón đầu bằng cách tuyên bố 300 huyện và khu tự trị là những
đơn vị chính quyền cơ sở. Sau đó, trong năm 2004, chính phủ đã công nhận rằng
phương pháp tiếp cận này không thể tránh khỏi những vấn đề và đã ban hành các đạo
luật để tái thiết lập quan hệ thứ bậc giữa tỉnh và huyện. Tuy nhiên, sau năm
2001, mỗi khu vực đã lấy lại toàn quyền quyết định trong nhiều vấn đề địa
phương, như y tế, giáo dục, công trình công cộng, nông nghiệp, giao thông vận tải,
thương mại, môi trường, lao động, v.v… Thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư cũng đã
được giao lại cho chính quyền địa phương, ngoại trừ các lĩnh vực dầu hỏa, khí đốt
và nguyên liệu phóng xạ. Việc ông Habibie không xuất thân từ Java mà từ Nam
Sulawesi hẳn đã tạo nên sự khác biệt. Nếu một người Java kế vị ông Suharto thì
hệ thống bánh xe và nan hoa có thể sẽ vẫn tiếp tục tồn tại ít nhất là một khoảng
thời gian nữa. Việc ông Habibie đã trải qua 20 năm học tập và làm việc tại Đức,
nước có hệ thống liên bang thay vì hệ thống đơn nhất, có thể cũng đã đóng vai
trò nhất định. Ngoài ra, ông Abdurrahman Wahid, người kế nhiệm cương vị Tổng thống
của ông Habibie vào cuối năm 1999, đã tôn trọng các đạo luật mà ông Habibie đã
ký và tạo điều kiện để chúng được thực thi đầy đủ. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới
về quá trình khu vực hóa của Indonesia đã nói rằng, sau năm 2001, hai phần ba
công chức trước đây làm việc cho chính quyền trung ương giờ chịu trách nhiệm
báo cáo trước các chính quyền địa phương, và trên 16.000 cơ sở dịch vụ, bao gồm
trường học và bệnh viện, đã được chuyển đổi tương tự.
Sự chuyển đổi có tính rủi ro khá cao, nhưng đã diễn ra thành
công. Ngày nay, mỗi khu vực quản lý các nguồn tài nguyên của chính mình và trực
tiếp giao dịch với các công ty nước ngoài. Bơ đã được trét đều ra xung quanh và
cục diện của toàn quần đảo đã thay đổi. Một số quy trình đã được tăng tốc bởi
vì các doanh nghiệp đã không còn phải đối phó với nhiều lớp chính quyền nữa.
Chính quyền địa phương quen thuộc hơn với các sự kiện trên thực địa, điều này
cho phép họ có thể phản ứng với những hoàn cảnh đang thay đổi. Các cuộc khảo sát
hậu phân quyền cũng cho thấy nhiều người dân Indonesia tin rằng các dịch vụ
công đã được cải thiện từ năm 2001. Không còn nghi ngờ gì nữa, điều này ít nhất
một phần là kết quả của việc những nhà làm chính sách quan trọng đã không chỉ
báo cáo lên trên, về Jakarta, mà còn xuống dưới, đến những người dân đã bầu cho
họ và đến các cơ quan lập pháp địa phương.
Quần đảo Riau là một ví dụ về việc một khu vực đã được hưởng
lợi từ những thay đổi như thế nào. Trước đó, quần đảo này thuộc sự quản lý của
Jakarta, tuy nhiên hiện nay, họ trực tiếp làm việc với các nhà đầu tư từ
Singapore và Malaysia – điều này hết sức hợp lý, vì Batam, thành phố lớn nhất của
tỉnh, nằm gần Singapore hơn là Jakarta. Đầu tư nước ngoài đã tăng đáng kể, đồng
thời có nhiều cơ hội việc làm cho người dân địa phương.
Nhưng quan trọng nhất, sự phân quyền đã giữ Indonesia thành
một đất nước thống nhất. Không khu vực nào có thể tuyên bố rằng nó đang bị
Trung ương áp bức hay đối xử không công bằng, vì số phận của mỗi khu vực giờ
đây nằm trong tay của chính người dân khu vực đó. Lợi nhuận từ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên đang được quản lý bởi chính quyền địa phương. Giải pháp quân
sự đối với chủ nghĩa ly khai dưới thời Tổng thống Suharto đã biến Indonesia
thành một nồi áp suất. Mối quan hệ giữa Trung ương và các tỉnh thường xuyên
căng thẳng và người ta phải đảm bảo rằng nắp đậy được giữ chắc chắn, hoặc sẽ có
một vụ nổ xảy ra. Giải pháp trao lại sự tự chủ cho các địa phương của Tổng thống
Habibie đã giải thoát hơi nước từ nồi áp suất và làm cho tình hình được duy trì
trong một thời gian dài.
Quá trình khu vực hóa là không thể đảo ngược. Một khi bạn đã
đưa cho các khu vực quyền sở hữu trực tiếp cộng đồng của họ, thì không thể đặt
sự kiểm soát trở lại. Sẽ có những điều chỉnh khi đất nước tìm kiếm sự cân bằng
tự chủ phù hợp, ví dụ giữa các tỉnh và các huyện, nhưng Indonesia sẽ không quay
trở lại hệ thống tập quyền như thời Tổng thống Suharto.
Tuy nhiên, sẽ là quá bất cẩn khi tin rằng con đường phát triển
của Indonesia, nhờ những phát triển tích cực này, không còn những khó khăn và bấp
bênh nữa. Sự khu vực hóa có thể là một điều rất tốt cho đất nước, những nó
không phải là một hạt đậu thần kỳ. Những thách thức truyền thống cũng như những
thách thức mới gần đây, bao gồm sự bế tắc chính trị tại Trung ương, cơ sở hạ tầng
nghèo nàn và tham nhũng tràn lan, tiếp tục đe dọa làm chệch hướng Indonesia. Do
đó, việc liệu Indonesia có đối mặt với những thách thức này, với cách thức và
vào thời điểm như thế nào, sẽ quyết định vận mệnh của người dân đất nước.
Singapore đã nếm trải mùi vị của vấn đề gây nên bởi bế tắc
chính trị khi chúng ta cùng lúc ký Hiệp ước Dẫn độ và Hiệp định Hợp tác Quốc
phòng với Indonesia. Tổng thống rõ ràng đã tin rằng hiệp ước là vì lợi ích của
đất nước ông, nếu không ông ta đã không ký nó. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp quốc
gia, hay Dewan Perwakilan Rakyat (DPR), đã chặn hiệp ước lại với lý lẽ bề ngoài
có vẻ là do nó đe dọa chủ quyền của Indonesia. Bất kỳ nhà phân tích chính trị
nào cũng có thể nói với bạn nguyên nhân thật sự mà họ muốn tạm dừng thỏa thuận:
Một cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào năm 2009, và các nhà lập pháp, mà phần lớn trong
số họ không thuộc đảng của Tổng thống, muốn tăng các cơ hội cho đảng của họ bằng
cách hạ thấp vị thế của Tổng thống. Có thể nào mà Tổng thống, vốn là một vị tướng
quân đội, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Ngoại giao và Tổng chưởng lý, lại
không hiểu các quyền chủ quyền của Indonesia là gì? Binh sĩ của Singapore đã huấn
luyện hơn 20 năm ở Indonesia trong suốt thời kỳ của Thống thống Suharto mà
không có bất kỳ lời phàn nàn nào. Tuy nhiên, đó là một phần của cái gọi là
wayang kulit, hay sân khấu chính trị, và nó vẫn tiếp tục gây tai họa cho
Indonesia, xuất phát từ cách thức các thể chế được tổ chức tại Trung ương như
thế nào.
Hiến pháp Indonesia được sửa đổi vào năm 2002 nhằm tạo điều
kiện cho Tổng thống được bầu cử trực tiếp bởi người dân. Trước đó, Tổng thống
được bầu gián tiếp bởi các nhà lập pháp. Do đó, Tổng thống đương nhiên nhận được
sự ủng hộ của cơ quan lập pháp và không phải lo lắng về việc các chính sách của
mình sẽ bị cản trở. Nhưng hệ thống mới tạo ra khả năng Tổng thống sẽ xuất thân
từ các đảng khác chứ không phải từ đảng đang chiếm đa số trong cơ quan lập
pháp, điều này đến lượt nó lại có khả năng gây nên bế tắc. Nếu những nhà sửa đổi
Hiến pháp Indonesia đã nghiên cứu hệ thống của Pháp, họ sẽ xem xét việc trao
cho Tổng thống quyền kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp, hoặc ngay sau
khi đắc cử, hoặc có thể sau đó một thời gian, để Tổng thống có thể thu hút toàn
bộ cử tri nhằm tạo ra một sứ mệnh cầm quyền rõ ràng hơn.
Cấu trúc được thiết kế năm 2002 có xu hướng tạo nên sự bế tắc
và cản trở việc ra quyết định tại Trung ương. Hơn nữa, cải cách khó có thể diễn
ra vì bất kỳ dự thảo luật nào cũng phải được thông qua bởi DPR, mà cơ quan này
không có động cơ để từ bỏ bất cứ quyền lực nào của mình. Duy trì khả năng cản
trở Tổng thống phù hợp với mục tiêu của DPR. Nhìn từ góc độ này, khu vực hóa là
sự cứu cánh, bởi vì nhiều quyết định quan trọng đã được trao lại cho các khu vực.
Cản trở lớn thứ hai đối với Indonesia là cơ sở hạ tầng. Khi
bạn sở hữu 17.500 hòn đảo, khả năng kết nối những hòn đảo này trở nên rất cần
thiết đối với sự phát triển kinh tế, bởi vì những trung tâm dân cư quan trọng cần
được kết nối với nhau để cho sự tăng trưởng trong một khu vực sẽ tạo thuận lợi
cho khu vực khác. Nhiều bến phà tốc hành và chuyến bay nội địa hơn sẽ giúp ích
đáng kể. Việc xây dựng những cây cầu nối các đảo cũng sẽ vô cùng có lợi. Không
có điều nào đang được thực hiện đủ. Cầu bắc qua eo biển Sunda, vốn sẽ là cây cầu
dài nhất của đất nước nối đảo Sumatra và Java, hai đảo quan trọng nhất
Indonesia, đã được nói đến trong nhiều năm rồi. Nếu được xây dựng, cây cầu này
sẽ biến hai đảo này thành một đảo lớn, tạo ra nhiều tiềm năng kinh tế. Nhưng
không may, lời nói đã không được biến thành hành động.
Các nhà phân tích Indonesia thấy rằng sự cải thiện cơ sở hạ
tầng đã chậm lại so với thời kỳ Tổng thống Suharto. Chính phủ hiện tại đã tổ chức
một loạt hội nghị cấp cao về cơ sở hạ tầng và đã lên những kế hoạch lớn nhằm
nâng cấp đường giao thông và các hình thức liên kết khác, nhưng vẫn thiếu những
dự án thực tế. Sự thất vọng càng lớn hơn bởi sự thật rằng rất nhiều người trong
tầng lớp tinh hoa Indonesia thích tận hưởng kỳ nghỉ cuối tuần của mình tại
Singapore. Cuối mỗi kỳ nghỉ ngắn, họ trở về với một ý thức mạnh mẽ rằng giao
thông và các sân bay của chính họ đang cần sự đầu tư và phát triển rất lớn.
Cuối cùng, đất nước phải giải quyết với tình trạng tham
nhũng tràn lan. Sự khu vực hóa đã không làm được gì để giảm thiểu tình trạng
này, vì các tỉnh trưởng cũng đang đòi hỏi phần của họ trong chiếc bánh. Tham
nhũng là kết quả của những kẽ hở ở tất cả các cấp chính quyền. Một đô la được
chi ra, nhưng 10 xu bị rút ra ở đây và 20 xu ở kia, và đến lúc nó tới được người
công nhân bình thường, hay nhà đầu tư nước ngoài đang cố gắng thu lợi nhuận,
thì chỉ còn lại rất ít. Tổng thống Yudhoyono hiểu rằng phá bỏ tham nhũng khó
khăn như thế nào một khi nó đã được cho phép hình thành. Việc đó sẽ cần sự hành
động hết sức quyết đoán và lâu dài, và phải bắt đầu từ Trung ương. Nếu tham
nhũng có thể được giảm xuống đáng kể, khi đó một tương lai mới có thể được tạo
ra và một Indonesia mới là có thể.
Indonesia đã đạt thành tích không làm quá tệ trong thập kỷ vừa
qua, liên tục tăng trưởng từ 4% đến 6%. Đất nước hầu như đã không bị ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Họ đang thu hút đầu tư lớn từ Trung Quốc
và Nhật Bản, nhờ vào sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, trong khoảng
20 đến 30 năm tới, tôi sẽ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy đất nước chuyển
mình. Malaysia có khả năng tạo ra những
bước tiến lớn hơn. Họ nhỏ gọn hơn về mặt địa lý. Họ có hệ thống giao thông tốt
hơn và một lực lượng lao động có khát vọng hơn.
Mặc dù sự phát triển tích cực đang diễn ra ở Indonesia,
nhưng họ vẫn là một nền kinh tế dựa vào tài nguyên với lối suy nghĩ của những
người muốn kiếm sống thông qua những gì mà thiên nhiên cung cấp hơn là những gì
bạn có thể tạo ra bằng chính đôi tay của mình. Họ tin rằng họ có những nguồn
tài nguyên đủ cho họ dùng trong một thời gian dài. Và họ có thể đúng. Họ có những
vùng lãnh thổ lớn chưa được khai thác. Họ có dầu và khí đốt, chúng có thể bị cạn
kiệt, nhưng họ cũng có gỗ và dầu cọ, không bị cạn kiệt, bởi vì đây là những sản
phẩm nông nghiệp có thể được trồng lại nhiều lần. Những nguồn tài nguyên mà họ
sở hữu có xu hướng tạo ra văn hóa an nhàn để nói rằng: “Đây là đất của tôi. Anh
muốn những gì bên dưới đó phải không? Hãy trả tiền cho tôi để có nó”. Theo thời
gian, điều này đã nuôi dưỡng một đặc tính không dám làm vốn sẽ không dễ dàng để
khắc phục.
Hỏi: Indonesia tiếp
tục có những tham vọng quyền lực lớn và vì sự tăng trưởng của họ trong những
năm qua, họ đã cải thiện được hình ảnh quốc tế của mình. Ấn tượng của ông đối với
những tham vọng đó và tác động của chúng đối với Châu Á cũng như đối với một nước
láng giềng nhỏ như Singapore là gì?
Đáp: Nhìn chung, Indonesia hy vọng Singapore ủng hộ họ trên
vũ đài quốc tế. Tôi cho rằng nếu điều đó không chống lại lợi ích của chúng tôi,
chúng tôi sẽ ủng hộ họ. Ở ASEAN, họ vẫn là nhà lãnh đạo trên thực tế. Họ có 240
triệu dân. Tất nhiên, nếu là 240 triệu dân trên một hòn đảo lớn, điều đó sẽ
khác. Nhưng dù vậy, họ vẫn là quốc gia lớn nhất.
Hỏi: Người ta cho rằng
Indonesia trước đây đã làm cho ASEAN phát triển bằng cách cho phép các quốc gia
khác, như Singapore và Malaysia, gây được sự chú ý. Họ không hống hách, không
giống như Ấn Độ trong SAARC (Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á). Một Indonesia tự
tin hơn có muốn tiếp tục giữ vị trí trung tâm ở ASEAN không?
Đáp: Chúng ta sẽ phải đợi xem. Nhưng ngay cả khi họ làm điều
đó, tôi không thấy làm thế nào họ có thể lấy đi được những gì chúng tôi đã thiết
lập cho chính mình, đó là một trung tâm thông tin, hậu cần, thương mại và đầu
tư.
Hỏi: Khi ông là Thủ
tướng, một trong những đặc điểm rõ ràng trong quan hệ giữa Indonesia và
Singapore là mối quan hệ gần gũi của ông với Tổng thống Suharto. Vì vậy, hai quốc
gia đã phát triển sự hiểu biết lẫn nhau. Ông có thấy những khó khăn hay những vấn
đề phía trước hay không khi mà mối quan hệ đó không còn nữa?
Đáp: Dù không còn sự qua lại như ngày xưa, nhưng Thủ tướng
Lý Hiển Long thỉnh thoảng vẫn gặp Tổng thống Yudhoyono. Sự trao đổi thương mại
thường xuyên được tiến hành thông qua những người Indonesia gốc Hoa. Điều này
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Singapore phát triển một nhóm nòng cốt
không phải là người Malay nhưng có thể nói tiếng Malay lưu loát để chúng tôi có
thể duy trì những mối quan hệ này. Điều này là quan trọng nhằm xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp với cả Malaysia và Indonesia.
Hỏi: Với sự thống trị
của Trung Quốc ở phần này của thế giới, ông thấy mối quan hệ Indonesia-Trung Quốc
sẽ phát triển như thế nào?
Đáp: Người Trung Quốc sẽ đối xử tôn trọng và lịch sự đối với
họ. Họ muốn nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Indonesia sở hữu và tôi thấy rằng mối
quan hệ đó đang phát triển. Họ đã dỡ bỏ lệnh cấm, được áp đặt dưới thời Tổng thống
Suharto, về việc dạy tiếng Trung và việc kỷ niệm những ngày lễ của người Trung
Quốc. Vì vậy, sự tương tác với Trung Quốc sẽ lớn mạnh. Họ đang khuyến khích người
Hoa của họ đến Trung Quốc để kinh doanh.
Hỏi: Một vấn đề khác
mà những nhà đầu từ nước ngoài, trong đó có Singapore, đã chú ý là việc gia
tăng chủ nghĩa dân tộc kinh tế ở Indonesia. Các công ty bị áp lực phải tăng cổ
phần của chủ sở hữu địa phương. Ông nghĩ
điều này sẽ diễn ra nhiều hơn hay ít đi?
Đáp: Nhiều hơn, tôi nghĩ vậy. Họ muốn có một phần bánh lớn
hơn.
Hỏi: Ông có thấy
Indonesia vẫn còn là nơi ươm mầm của chủ nghĩa khủng bố không? Và sự gia tăng của
lực lượng dân quân Hồi giáo có phải là một mối đe dọa đối với sự ổn định của
Indonesia?
Đáp: Nếu bạn đọc các báo cáo, bằng cách nào đó Tổ chức
Jemaah Islamiyah đã tuyển thêm một số tân binh ở Indonesia và họ đã tiến hành
các vụ đánh bom ở Bali và khách sạn Marriott. Tuy nhiên, tôi thấy Indonesia
khác với Malaysia. Malaysia là chủ nghĩa Hồi giáo cởi mởi hơn. Có những thay đổi
quan trọng đang diễn ra ở Indonesia do ảnh hưởng của Ả-Rập Xê-út. Mô hình chủ
nghĩa Hồi giáo của họ được lấy làm tiêu chuẩn vàng vì họ đã tổ chức những cuộc
họp và chi trả chi phí cho những người Hồi giáo từ những khu vực khác của thế
giới đến tham dự. Điều này dẫn đến sự
gia tăng của các nhóm chủ nghĩa Hồi giáo gây sức ép ở Indonesia. Tuy nhiên, những
điều này không thay đổi đột ngột – đặc biệt là nếu nói về văn hóa của người
dân.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét