Được biết ông Đặng Xương Hùng đã từ bỏ tương lai
nghề nghiệp trong ngành ngoại giao để dấn thân đấu tranh cho quá trình
dân chủ hóa ở Việt Nam, chúng tôi thực hiện cuộc trò chuyện với ông
để hiểu thêm về cách thức vận hành và tổ chức của bộ máy quyền
lực ở Việt Nam.
Trước tiên, ông có thể cho biết, ông đã đến với
ngành ngoại giao như thế nào, là một lựa chọn cá nhân, hay là tuân
theo mong muốn của gia đình… ?
Đặng Xương Hùng :
Tôi đến với ngành ngoại giao là do yếu tố gia đình. Bố và
anh trai cả của tôi đều làm ở Bộ Ngoại giao. Bố tôi là bạn của ông Nguyễn Cơ Thạch,
cố Bộ trưởng Ngoại giao. Hai ông là đồng hương với nhau, quê tại Nam Định, đã
cùng nhau làm việc ở Ủy ban kháng chiến liên khu ba (trước 1954). Khi Bộ ngoại
giao được thành lập, ông Thạch đã rủ (hoặc đưa) Bố tôi về đây làm cùng nhau. Vốn
tiếng Pháp của Bố tôi cũng khá.
Tôi vốn học giỏi ở những môn tự nhiên (toán, lý, hóa) hơn,
nên khi thi vào đại học (năm 1978), tôi đã chọn thi vào Đại học Bách khoa. Lúc
đó, đại học Ngoại giao không có trong danh sách để thi, mà họ đi thu nạp sinh
viên từ con em trong ngành, có kết quả tốt ở các trường đại học khác. Năm đó,
tôi được 21 điểm, chỉ thiếu nửa điểm là đi học ở nước ngoài (đây là sự đáng tiếc,
tôi sẽ nhớ đến suốt đời, vì rằng trong bài thi toán tôi đã có sự nhầm không thể
tưởng tượng được, đó là 2 :1=1/2, nếu không nhầm ở đây bài thi toán tôi sẽ có
điểm rất cao). Sau đó, đã có một người của trường đại học ngoại giao (anh Nguyễn
Hồng Phong) đã đến gia đình tôi, thuyết phục đưa tôi vào đại học ngoại giao. Tất
nhiên, gia đình tôi ai cũng đồng ý, bản thân tôi không thích thú lắm, vì rằng
nó đi ngược với ý thích muốn làm nghiên cứu khoa học của tôi. Tuy nhiên, cuối
cùng cậu thanh niên mới có 17 tuổi cũng đã đồng ý theo ý kiến mọi người và cậu
ta cũng phải thừa nhận rằng vào ngoại giao là một diễm phúc và danh giá thời bấy
giờ.
Tuy nhiên, khi vào sơ tuyển tại đại học ngoại giao, tôi gặp
khó khăn, do ngoại hình của tôi vô cùng tệ hại, mắt híp bẩm sinh, thấp bé, lúc
đó tôi chỉ nặng có 38 kg, ngoại hình này không thể đủ để vào làm ngoại giao đại
diện cho Việt Nam tiếp xúc với người nước ngoài. Nhưng số phận vẫn muốn đẩy tôi
vào với ngành ngoại giao. Câu chuyện lại một lần nữa liên quan đến ông Nguyễn
Cơ Thạch. Năm đó, ông Thạch đang làm Thứ trưởng, phụ trách trường đại học ngoại
giao. Khi được nghe báo cáo về trường hợp của tôi, con ông Đặng Thế Xương, ông
Thạch đã nói « Nó bé thì nó sẽ lớn và sẽ nên người, cứ cho nó vào ». Thế là tôi
đã trở thành sinh viên trường đại học ngoại giao. Năm 1983, sau khi tốt nghiệp
đại học ngoại giao, tôi đã chính thức vào Bộ Ngoại giao, làm ở Vụ Châu Á 2 (phụ
trách Lào và Cămpuchia).
Nguyễn Thị Từ Huy :
Trong tư cách một người làm ngoại giao, hẳn ông đã
có nhiều đóng góp ? Tại sao ông không tiếp tục đóng góp qua con đường
ngoại giao mà lựa chọn từ bỏ hệ thống, nghĩa là lựa chọn một cuộc
sống bấp bênh và cả nguy hiểm nữa ?
Đặng Xương Hùng :
Thật lòng, theo cách nghĩ của tôi, tôi đóng góp không nhiều
cho ngành ngoại giao và cho đất nước. Tôi chỉ là một công chức hoàn thành nhiệm
vụ. Tôi là một người làm ngoại giao rất xoàng, tầm thường. Ăn nói không thật
trôi chảy, tiếng Pháp, tiếng Anh không thật giỏi. Ngoài ra, ngoại hình cũng làm
tôi trở ngại rất nhiều, nhất là những năm đầu tiên. Tôi thực sự tự ti về hình ảnh
của mình, đã có lúc, khi thấy một số người bạn rời bỏ ngành ngoại giao, tôi đã
có ý định tương tự, nhưng quả thực tôi không có cơ hội và năng lực cần thiết
nào khác để mà có thể từ bỏ được.
Hơn nữa, cùng với năm tháng, tôi đã tự trả lời cho chính
mình câu hỏi tại sao mình không thành công trong ngành ngoại giao cho lắm. Mình
sẽ không thể giỏi lên ở một môi trường mà mình ít có lòng yêu mến. Điều này thì
có phần hơi bào chữa, nhưng vẫn có giá trị sự thật. Tiếp nữa, là việc có «
thành công » ở một cơ quan nhà nước như Bộ ngoại giao thì ta phải có sự hiểu biết
nhất định về « luật chơi » của nó. Những thứ luật chơi phải là người thật tinh
quoái mới nhận biết hết được. Hoặc nếu anh không đủ tinh quoái thì chí ít anh
phải đủ « hèn » để kìm nén những ý kiến cá nhân, răm rắp tuân thủ ý kiến lãnh đạo.
Cả hai thứ trên tôi đều không có.
Tôi đã nhận thức ra từ khá lâu rằng Bộ ngoại giao mới chỉ dừng
lại ở chỗ là môi trường để tôi kiếm ra đồng tiền nuôi sống tôi và gia đình,
chứ nó ít là môi trường cho tôi sự thoải mái. Càng ngày tôi lại càng cảm thấy Bộ
ngoại giao mất dần ký ức đẹp của nó trong tôi. Có một cái gì đó không thật ổn
trong ngành ngoại giao. Những người tâm huyết vắng dần, đồng nghĩa với việc cán
bộ « tinh khôn » tăng dần. Những cuộc đấu đá, chạy chọt để lên chức, lên quyền,
đi luân chuyển nước ngoài ngày càng trở thành những câu chuyện thường ngày ở Bộ.
Những câu nói thật tình chỉ nghe được ở những buổi chơi golf và những buổi rượu
bia bạn bè vui vẻ. Ai cũng tỏ quan tâm tình hình khó khăn của đất nước, nhưng để
chịu suy nghĩ sâu thêm hoặc thực thi ý nghĩ của mình thì ít người quan tâm thể
hiện, hoặc không dám hoặc chặc lưỡi chấp nhận sự bình yên.
Đó là cái vòng luẩn quẩn của Bộ ngoại giao nói riêng và của
cả hệ thống nói chung. Người thực sự yêu ngành nghề của mình hiếm lắm. Cả xã hội
đang sống với cảnh nhanh tay kiếm lợi từ chỗ đứng riêng của mình. Công an, quân
đội, bác sĩ, giáo viên, đều như vậy. Trong một lần phỏng vấn về chuyện visa của
các sứ quán bên ngoài, tôi đã từng ví nó như thể công an giao thông đứng đường
ăn chặn lộ phí vậy. Cái tệ hại của chế độ này là đảng cộng sản muốn mua sự
trung thành và ngoan ngoãn của công chức nhà nước bằng việc ban phát bổng lộc
nào đó cho từng ngành nghề, nếu không ban phát được họ bịt mắt cho qua những
tiêu cực ngành nghề mà đó tạo ra. Thí dụ như họ bỏ qua cho công an những nhũng
nhiễu mà công an gây ra cho nhân dân, thậm chí đổ lỗi là do người dân. Bỏ qua
cho giáo viên việc dạy thêm. Bỏ qua cho bác sĩ trong việc nhận phong bì. Với
ngoại giao chúng tôi được họ mua bằng những chuyến đi công tác nước ngoài và lệ
phí visa. Trong bộ chúng tôi hay đùa nhau rằng, rốt cuộc chỉ là « vấn đề
Cămpuchia » (mâu thuẫn nội bộ các sứ quán là vấn đề chia chác lệ phí visa).
Nguyễn Thị Từ Huy:
Câu chuyện visa cụ thể là thế nào, thưa ông?
Đặng Xương Hùng:
Chuyện visa, khi tôi tiết lộ những chi tiết cụ thể, tôi biết
những người bạn tôi ở Bộ ngoại giao chắc sẽ trách tôi nhiều lắm. Vì rằng chỉ mới
ba, bốn năm nay thôi, tôi vẫn còn sống vì nó và kiếm ra đồng tiền vì nó. Nhưng
cái lòng tôi muốn nói ra vì rằng tôi có một người bạn còn trẻ ở Bộ mới lần đầu
ra nước ngoài và khi tiếp xúc với câu chuyện visa, đã thốt lên rằng : « Thu tiền
lệ phí visa như thế làm mất uy tín của Bộ Ngoại giao quá anh nhỉ ». Tôi đã trả
lời : « Đi công tác ở sứ quán, không có tiền chia từ visa, mình không còn thừa
ra đồng nào để mà tiết kiệm đâu em ạ. Rồi em sẽ quen dần thôi ». Và vì rằng cả
hai chúng tôi đều cùng một ý nghĩ là thà nếu nhà nước cho chúng tôi hưởng một
chế độ tiền lương chính đáng tương đương nào đó, còn hơn là dành cho chúng tôi
một « chế độ mập mờ » để chúng tôi phải « gian dối » trong lệ phí visa. Nhưng từ
lâu tôi đã có câu trả lời cho mình là, do nhà nước không thể có đủ để cung cấp
cho chúng tôi một khoản tiền chính đáng nào đó, nên họ cho chúng tôi một «mảnh
sân » để chúng tôi « tự do trong kín đáo » kiếm thêm để bù vào. Họ sẽ bịt mắt
cho qua.
Câu chuyện visa có thể tóm tắt như sau :
Bộ Tài chính quy định một visa có giá là 35 đô la Mỹ. Số tiền
này sẽ đưa vào ngân sách nhà nước. Có chia để lại cho Bộ Ngoại giao một phần. Bảng
lệ phí visa theo giá nói trên lẽ ra phải treo công khai tại nơi làm lãnh sự của
các sứ quán. Nhưng nếu chỉ thu như vậy, các sứ quán chỉ làm « không công » cho
nhà nước, tức không có chênh lệch nào cả. Bộ Tài chính hàng năm có tổ chức đoàn
sang kiểm tra các sứ quán nhất là những sứ quán có số thu lệ phí cao. Tuy
nhiên, đấy là cái dịp để các bên đóng kịch. Sứ quán sẽ đóng kịch bằng việc treo
bảng lệ phí visa lên để cho cán bộ Tài chính trông thấy rồi cất ngay đi. Nộp
cho Bộ Tài chính đủ biên lai thu tiền visa đúng với giá 35 đô la đó.
(Chúng tôi có hai loại biên lai, một nộp cho bộ tài chính, một
biên lai cho khách theo giá thực thu, cái này sẽ hủy đi ngay sau đó). Một lần
kiểm tra như vậy cũng là dịp Bộ Ngoại giao « bồi dưỡng » cho cán bộ tài chính
nói riêng và Bộ Tài chính nói chung về việc cho qua sự việc này. Theo tôi thì
các Bộ Ngành của Việt Nam đều làm như vậy. Bỏ qua việc làm ăn mập mờ để thu về
một « khoản thù lao » nào đó.
Giá thực thu một visa cho khách ở các cơ quan đại diện ngoại
giao mỗi nơi một khác. Ngay cả trong một nước cũng có khi khác nhau. Thí dụ ở
Genève, chúng tôi thu 70 CHF, sứ quán ở Bern thu 80 CHF. Tại Paris, hình như họ
thu 70 euros. Để lý giải cho việc chênh lệch đó, có cơ quan đại diện bị bí khi
bị chất vấn thì giải thích rằng phần chênh lệch là chi phí hành chính và chi
phí xin chấp nhận xuất nhập cảnh từ một công ty du lịch trong nước. Phần lớn
các công ty du lịch làm dịch vụ xin phép nhập xuất cảnh đều là có chân của Bộ
Công an, vì như vậy việc xin phép sẽ được nhanh hơn.
Tóm lại, nhà nước định ra một giá cho visa, các sứ quán lẽ
ra chỉ được thu như thế hoặc hơn lên đôi chút về những chi phí hành chính.
Nhưng nếu làm như thế cán bộ ngoại giao đi công tác nước ngoài sẽ không còn có
thêm được gì. Đã nhiều năm Bộ Ngoại giao đã rất muốn điều chỉnh tìm ra một
phương cách thu sao cho hợp lý, cho chính đáng hơn. Nhưng đều bất lực. Cuối
cùng, đều chấp nhận nhắm mắt cho qua chấp nhận như vậy. Cũng là ân huệ mà nhà
nước muốn đổi lấy sự trung thành của các cán bộ ngoại giao và cũng là cách mà
các quan chức ngoại giao đủ sống khi ở nước ngoài. Họ chỉ có lương cơ bản chừng
khoảng 500 USD/tháng. Cuối hàng tháng, chúng tôi dùng phần chênh lệch, chia cho
các nhân viên sứ quán. Đây cũng là câu chuyện gây mẫu thuẫn nội bộ do chia
chác. Ai được chia, chia tỷ lệ bao nhiêu ? Có những nơi phần chia visa mới là
phần quan trọng nhất trong các khoản thu nhập. Trước khi xin đi luân chuyển, mọi
người đều tìm hiểu thu nhập visa ở nơi đó là bao nhiêu. Có những nơi rất cao ở
khoản này, thí dụ ở San Fancisco, Washington, London, Paris… Vậy nên, người ta
mới lý giải được tại sao ông Thứ trưởng Ngoại giao, ủy viên trung ương đảng lại
đi làm Tổng Lãnh sự tại San Fancisco, một chức vụ trong ngoại giao chỉ hơn cấp
Lãnh sự của tôi một cấp.
Tôi cũng chỉ mong rằng một ngày nào đó, đất nước thay đổi, để
những người đi làm ngoại giao không còn phải cam chịu những chê trách trong
visa, hộ chiếu, thay vào đó là những khoản thu nhập chính đáng, xứng đáng
với công việc và năng lực của họ.
Paris – Genève, tháng 6/2016
Nguồn: RFA Tiếng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét