Tuấn Khanh
Theo Tiếp Thị Thế Giới
Nhiều người dân ở
vùng hạn hán đang tìm cách ly hương. Ảnh: TL
Rõ là một quốc gia
đang bị bao vây. Và bao vây một cách êm đềm vì người ta không nghe tiếng kêu cứu
hay phản đối đúng mức cho sự sinh tồn của dân tộc mình.
Một người bạn kể lại
rằng sự hoang mang người dân đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) về nạn khô hạn và
ngập mặn ngày càng nhiều.
Tại Sóc Trăng, người
dân ở đây kể rằng nhiều gia đình đã tìm cách bán đất đai – dĩ nhiên là với giá
rẻ rúng – để dời đi, tìm một nơi khác để sống sót tai ương ngay tại quê nhà của
mình.
Không chỉ là người
làm ruộng mới khổ sở, những người nuôi cá tại Trà Vinh đang vớt lên hàng loạt
những con cá lóc bị ghẻ lở và chảy máu toàn thân do ao hồ bị ngập mặn. Các loại
thuỷ sản nước ngọt đang giãy giụa tuyệt vọng trong sự kinh hoàng bất lực của nông
dân.
Trên những chuyến đò,
trên các chuyến xe liên tỉnh… Người ta đang râm ran nói về nơi mình đến – miền
lục tỉnh bao la sông nước – nhưng giờ thì đang chết dần. Những vùng đất dồi dào
sản vật của miền Nam có thể sẽ chỉ là chuyện kể như trong cổ tich.
Rõ là một quốc gia
đang bị bao vây. Và bao vây một cách êm đềm vì người ta không nghe tiếng kêu cứu
hay phản đối đúng mức cho sự sinh tồn của dân tộc mình.
Sự kiện ngập mặn hôm
nay của ĐBSCL chỉ là hiện tượng tái diễn của năm 2015, nhưng lần này mức độ khốc
liệt, ảnh hưởng đến hàng triệu người. Thế nhưng, chính uỷ ban Sông Mekong Việt
Nam cũng “bao vây” người dân mình bằng những thông tin hết sức mù mờ và chủ
quan về tác hại của đập thuỷ điện Trung Quốc.
Uỷ ban này được lập
ra bằng tiền thuế của người Việt Nam, để phối hợp cùng ba nước khác, thuộc dòng
hạ lưu sông Mekong là Lào, Thái Lan, Campuchia… để đối phó, cảnh báo tình hình
có thể ảnh hưởng đến quốc gia.
Uỷ ban Sông Mekong Việt
Nam thiếu khả năng, thiếu thông tin hay vô trách nhiệm với đất nước của mình?
Không phải hôm nay chuyện ngập mặn, khô hạn mới được biết tới.
Từ năm 2011, tức năm
năm trước, thế giới đã liên tục có những thông tin cảnh báo và kêu gọi Việt Nam
hãy cẩn trọng về các dự án trên sông Mekong, bao gồm của Lào, Thái Lan, đặc biệt
là các dự án trên thượng lưu, vùng Vân Nam của Trung Quốc.
Lạ lùng nhất, ở vị
trí của mình, uỷ ban ấy lại rất điềm nhiên, thậm chí còn ra báo cáo, khẳng định
vào tháng 10/2015: rằng những tác động từ đập của Trung Quốc là “tương đối nhỏ”.
Từ tháng 11/2011,
trên tờ Deutsche Welle (DW) đã có một bài bình luận Mekong dams threaten food
and security, nhắc rằng lưu vực sông khổng lồ này, với sự đa dạng sinh học chỉ
đứng sau sông Amazon, đang bị đe doạ đáng sợ.
Việc làm khô hạn hay
hạn chế dòng chảy của sông Mekong có thể làm ảnh hưởng đến lượng đánh bắt hàng
năm, vào khoảng 15 triệu tấn (giá trị hàng tỷ USD) và làm cằn cỗi đời sống hai
bên bờ.
Cơ quan WWF của Liên
hiệp quốc dự kiến đến năm 2025, sẽ có 90 triệu người sống quanh đôi bờ sông
này, trong đó 50% là sinh tồn bằng tự nhiên. Việc kiểm soát dòng chảy sẽ là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến đói nghèo và hỗn loạn.
Tháng 11/2015, tức chỉ
mới đây, tờ Straits Times cũng kêu gọi sự quan tâm của các nước bằng phân tích
cụ thể của cây viết chuyên về vùng Đông Dương Nirmal Ghosh, rằng tác dộng của
các đập thuỷ điện đối với Việt Nam hết sức nghiêm trọng.
Độ nhiễm mặn sẽ tràn
vào đất liền, vùng ĐBSCL, đe doạ nhiều vùng trồng lúa. Và rồi một phần bờ biển
dài 600 km phía Nam Việt Nam bị mất dần, với tốc độ 4 – 12 m một năm.
Rõ ràng là cả thế giới
đều biết, đều cùng chung sức tìm hiểu và nhắc nhở, nhưng chỉ có người dân, kẻ
chịu nạn sớm và nhọc nhằn nhất, thì lại là người biết sau cùng. Họ đã bị bao
vây khỏi sự hiểu biết vì lẽ gì?
Những câu chuyện như
vậy, nhắc chúng ta nhớ lại những ngày Quốc hội Việt Nam được nhìn thấy với những
đại biểu ngủ ngon trong nghị trường. Những đại biểu khác thì chơi game và nhiều
lần Quốc hội tuyên bố về sớm vì không có gì để bàn.
Những người đại diện
của nhân dân, cũng bao vây hiện tình đất nước của mình với nhân dân bằng sự rảnh
rỗi và nhẹ nhàng.
Nó cũng nhắc chúng ta
nhớ, suy nghĩ và sự minh bạch rộng rãi và cần thiết cho cuộc chiến 1979, cho Gạc
Ma 1988, hay cho cuộc chiến mất đảo Hoàng Sa 1974, là điều quan trọng để người
Việt thoát khỏi những vòng vây nhạt nhoà về lịch sử của chính mình.
Trong những vòng vây ấy,
có những người dân cuống cuồng tự tìm một con đường sống sót cho mình, không muốn
nghe những lời êm dịu và trấn an vô nghĩa như của uỷ ban Sông Mekong Việt Nam.
Có những người im lặng
và cay đắng vì mình đã tin tưởng hết lòng. Trong những câu chuyện kể về Lý Sơn,
người ta nói đã không còn nhìn thấy ông Mai Phụng Lưu – con sói biển vẫn luồn
qua các con tàu Trung Quốc ở gần Hoàng Sa.
Có lẽ cũng đến lúc
ông Lưu muốn lùi lại, giữ cho mình không là một biểu tượng quá rõ ràng về can đảm
và liều lĩnh cho tổ quốc, trong khi các ông nghị vẫn gọi những cuộc tấn công
vào ngư dân Việt Nam là “tàu lạ” hoặc mới mẻ và dè dặt hơn “được mô tả là tàu
Trung Quốc”.
Không chỉ có những hiểm
nguy bên ngoài đang bao vây đất nước. Mà ngay cả những ngôn luận mập mờ, sự vô
trách nhiệm không bị truy xét, quan trọng hơn là những kẻ sành sỏi việc thụ hưởng
quyền lợi cá nhân nhưng vô trách nhiệm với tổ quốc và dân tộc, cũng là một loại
trùng vây ngày đêm, đáng ghê sợ lúc này.
Và những kẻ bao vây,
làm trì trệ sự hiểu biết, nhận thức và tinh thần của người dân Việt Nam, có phải
là những người đáng bị xét là đang chống lại chính đất nước mình?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét