Biên dịch: Vũ Hồng Trang
Nguồn: Fu Ying, “How
China Sees Russia – Beijing and Moskva
Are Close, but Not Allies”, Foreign Affairs, 14/12/2015.
Vào thời điểm khi
quan hệ giữa Nga và Hoa Kỳ và các nước Tây Âu đang ngày càng lạnh đi, mối quan
hệ tương đối ấm áp giữa Trung Quốc và Nga đã và đang thu hút sự chú ý. Các học
giả, các nhà báo phương Tây tranh luận về bản chất của quan hệ đối tác Trung –
Nga và tự hỏi liệu nó có phát triển thành một liên minh hay không.
Kể từ khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc, hai quan điểm chính có xu hướng định hình đánh giá của phương
Tây về mối quan hệ Trung – Nga và những dự đoán về tương lai của mối quan hệ
này. Quan điểm thứ nhất cho rằng mối liên hệ giữa Bắc Kinh và Moskva dễ bị tổn
thương, mang tính thời cơ và được đặc trưng bởi những bất ổn – một kiểu “hôn
nhân vụ lợi”, cụm từ được nhiều người ủng hộ lập luận này ưa chuộng, những người
không cho rằng hai nước sẽ trở nên quá gần gũi và rất có thể sẽ bắt đầu xa
cách.
Quan điểm còn lại thừa
nhận rằng các yếu tố chiến lược và thậm chí tư tưởng đã giúp hình thành cơ sở mối
quan hệ Trung – Nga và dự đoán rằng cả hai đều coi Hoa Kỳ như là một trở ngại
cho mục tiêu của họ – và cuối cùng sẽ thiết lập một liên minh chống Mỹ và
phương Tây.
Cả hai quan điểm này
đều không nắm bắt được chính xác bản chất đích thực của mối quan hệ. Đấy là mối
quan hệ đối tác chiến lược ổn định và hoàn toàn không phải là cuộc hôn nhân vụ
lợi: nó phức tạp, mạnh mẽ, và sâu sắc. Chính những thay đổi trong quan hệ quốc
tế kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đã đưa hai nước lại gần nhau hơn. Một số
nhà phân tích và các quan chức phương Tây suy đoán (và có lẽ còn hy vọng) rằng
các cuộc xung đột đang diễn ra ở Syria và Ukraina, những nơi Nga ngày càng can
thiệp sâu hơn, sẽ dẫn đến những căng thẳng giữa Bắc Kinh và Moskva, hoặc thậm
chí làm rạn nứt mối quan hệ. Nhưng điều đó vẫn chưa xảy ra.
Tuy nhiên, Trung Quốc
không có hứng thú đối với một liên minh chính thức với Nga, và cũng không muốn
thiết lập một khối chống Mỹ hay chống phương Tây nào. Thay vào đó, Bắc Kinh hy
vọng Trung Quốc và Nga có thể duy trì mối quan hệ của họ theo một cách tạo ra
môi trường an toàn để hai nước láng giềng lớn đạt được các mục tiêu phát triển
của mình và hỗ trợ lẫn nhau thông qua hợp tác có lợi cho cả đôi bên, hình thành
một hình mẫu về việc các nước lớn có thể quản lý những khác biệt và hợp tác để
thúc đẩy hệ thống quốc tế.
Những mối quan hệ gắn
kết
Trong nhiều dịp khoảng
từ cuối thế kỷ 19 cho đến giữa thế kỷ 20, Trung Quốc đã gia nhập một liên minh
với đế quốc Nga và đế quốc kế nhiệm của nó là Liên Xô. Nhưng mỗi lần, sự liên
minh đều ngắn ngủi, bởi lẽ nó chẳng khác gì ngoài sự trục lợi giữa hai quốc gia
chênh lệch hoàn toàn về độ mạnh yếu. Trong những thập niên sau đó, hai nước do
cộng sản lãnh đạo chật vật xoay sở, đôi khi có hợp tác nhưng thường bị chia rẽ
bởi sự cạnh tranh và nghi ngờ lẫn nhau. Năm 1989, trong những năm suy tàn của
chế độ Xô Viết, hai bên cuối cùng đã bình thường hóa mối quan hệ. Cả hai cùng
tuyên bố sẽ phát triển mối quan hệ song phương dựa trên “sự tôn trọng chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và đôi bên cùng có lợi, và cùng tồn tại
hòa bình.” Hai năm sau, Liên Xô tan rã, nhưng quan hệ Trung – Nga vẫn duy trì
nguyên tắc “không liên minh, không xung đột, và không nhắm mục tiêu vào bất kỳ
nước thứ ba nào.”
Không lâu sau, liên
bang Nga lựa chọn cái được gọi là cách tiếp cận Đại Tây Dương. Để giành được
lòng tin và sự giúp đỡ của phương Tây, Nga không chỉ đi theo phương thức của
phương Tây đối với cải cách kinh tế mà còn nhượng bộ về một số vấn đề an ninh
quan trọng, bao gồm cả việc giảm kho vũ khí hạt nhân chiến lược. Tuy nhiên, mọi
thứ đã không diễn ra theo cách mà người Nga đã hy vọng, khi nền kinh tế lao đao
và ảnh hưởng trong khu vực của quốc gia này suy giảm. Năm 1992, thất vọng với
những gì họ cho là những cam kết trợ giúp không được thực hiện của Mỹ và châu
Âu, và bị kích thích bởi phát biểu về việc mở rộng về phía đông của NATO, Nga bắt
đầu chú ý nhiều hơn đến châu Á. Cũng vào năm đó, Trung Quốc và Nga tuyên bố mỗi
bên sẽ coi bên còn lại là “nước bạn bè” và ban hành một tuyên bố chính trị
chung quy định rằng “sự tự do của người dân trong việc lựa chọn con đường phát
triển riêng của họ cần được tôn trọng, trong khi những khác biệt trong hệ thống
xã hội và ý thức hệ không nên cản trở sự tiến triển bình thường của các mối
quan hệ. ”
Kể từ đó, quan hệ
Trung – Nga đã dần được cải thiện và sâu sắc thêm. Trong 20 năm qua, thương mại
và đầu tư song phương được mở rộng trên quy mô lớn. Năm 2011, Trung Quốc đã trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của Nga. Chỉ riêng năm 2014, đầu tư của Trung
Quốc tại Nga đã tăng 80 % và xu hướng tăng đầu tư vẫn sẽ còn tiếp tục. Để nắm bắt
được sự phát triển trong quan hệ kinh tế, cần xem xét rằng trong những năm đầu
thập niên 1990, thương mại song phương hàng năm giữa Trung Quốc và Nga ở mức
khoảng 5 tỷ đô la; năm 2014 đã lên tới gần 100 tỷ. Năm đó, Bắc Kinh và Moskva
đã ký một thỏa thuận mang tính bước ngoặt nhằm xây dựng một đường ống mà đến
năm 2018 sẽ mang 38 tỷ mét khối khí đốt tự nhiên của Nga sang Trung Quốc mỗi
năm. Hai nước cũng đang có kế hoạch ký các thỏa thuận quan trọng liên quan đến
sản xuất điện hạt nhân, sản xuất sản phẩm hàng không, đường sắt tốc độ cao, và
phát triển hạ tầng. Hơn nữa, họ đang hợp tác về các thể chế tài chính đa quốc
gia mới, chẳng hạn như Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á, Ngân hàng phát
triển mới của BRICS, và quỹ dự trữ ngoại hối BRICS.
Trong khi đó, quan hệ
an ninh cũng được cải thiện. Trung Quốc trở thành một trong những nước nhập khẩu
vũ khí lớn nhất của Nga. Hai nước đang thảo luận về nhiều dự án cùng nghiên cứu
và phát triển một số loại vũ khí. Hợp tác quốc phòng Trung – Nga quy mô lớn bao
gồm việc tham vấn giữa các nhân viên quân sự cấp cao, cùng đào tạo và tập trận
chung, trong đó có tới trên dưới 10 lần tập trận chung chống khủng bố trong suốt
thập niên qua, được thực hiện song phương hoặc dưới sự bảo trợ của Tổ chức Hợp
tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation Organization). Trong 20 năm qua, hàng ngàn
nhân viên quân sự Trung Quốc đã học tập, nghiên cứu ở Nga, và nhiều quan chức
quân sự Nga đã tham gia đào tạo ngắn hạn tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc.
Khi các liên kết kinh
tế và quân sự được tăng cường, những mối quan hệ chính trị cũng được đẩy mạnh.
Năm 2008, Trung Quốc và Nga đã giải quyết một cách hòa bình tranh chấp lãnh thổ
vốn đã từng làm rạn nứt mối quan hệ trong nhiều thập kỷ, chính thức phân định
đường biên giới hơn 2.600 dặm và do đó loại trừ nguồn gây căng thẳng lớn nhất
và duy nhất – một thành tựu hiếm có cho hai nước láng giềng lớn. Trong những
năm gần đây, hai nước đã tổ chức các cuộc họp thường xuyên hàng năm giữa lãnh đạo
nhà nước, Thủ tướng, các thành viên quốc hội hàng đầu, và các ngoại trưởng. Kể
từ năm 2013, khi trở thành chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình đã có 5 chuyến
thăm đến thăm Nga và Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đến Trung Quốc 3 lần
trong khoảng thời gian tương tự. Chủ tịch Tập và tổng thống Putin tổng cộng đã
gặp gỡ 12 lần, khiến Putin trở thành vị lãnh đạo tối cao nước ngoài Tập gặp gỡ
thường xuyên nhất kể từ nắm quyền chủ tịch Trung Quốc.
Giải quyết những khác
biệt
Dẫu cho đạt được tiến
bộ này, giữa hai nước láng giềng vẫn tồn tại những khác biệt, và họ không hẳn
lúc nào cũng đặt trọng tâm giống nhau trong chính sách đối ngoại. Nga vốn có
truyền thống hướng tới châu Âu, trong khi Trung Quốc quan tâm nhiều hơn tới
châu Á. Phong cách ngoại giao của hai bên cũng khác biệt. Nga dày dặn kinh nghiệm
hơn trên đấu trường toàn cầu, và có xu hướng ủng hộ những động thái ngoại giao
mạnh mẽ, năng động, và thường gây bất ngờ. Trái lại, ngoại giao Trung Quốc mang
tính ứng phó và thận trọng nhiều hơn.
Sự trỗi dậy của Trung
Quốc đã gây khó chịu đối với một vài thành phần ở Nga, nơi mà một số người chưa
kịp thích ứng với sự thay đổi trong sức mạnh tương đối giữa Trung Quốc và Nga.
Hiện giờ ở Nga vẫn còn bàn tán về “mối đe dọa Trung Quốc”, một biểu hiện tàn dư
từ các thời kỳ trước. Một cuộc thăm dò được tiến hành vào năm 2008 bởi Quỹ Dân
ý của Nga cho thấy, khoảng 60 % người Nga lo ngại rằng việc người Trung Quốc di
cư tới khu vực biên giới Viễn Đông sẽ đe dọa tới sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga;
41% tin rằng một Trung Quốc hùng mạnh hơn sẽ gây tổn hại cho các lợi ích của Nga.
Và việc Trung Quốc săn lùng các cơ hội đầu tư và thương mại mới ở nước ngoài đã
dẫn tới việc tăng cường hợp tác giữa Trung Quốc và các quốc gia thuộc Liên Xô
cũ, khiến Nga lo ngại rằng Trung Quốc đang cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực của
mình. Cũng một phần vì điều này mà phía Moskva ban đầu do dự hỗ trợ Sáng kiến
Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa của Bắc Kinh trước khi cuối cùng chấp thuận
năm 2014. Trong khi đó, một số người Trung Quốc tiếp tục ôm mối hận lịch sử đối
với Nga. Mặc dù vấn đề biên giới đã được giải quyết, các nhà bình luận Trung Quốc
đôi khi vẫn đề cập tới vùng lãnh thổ 600.000 dặm vuông của Trung Quốc mà Nga
sáp nhập dưới thời Sa hoàng vào cuối thế kỷ 19.
Tuy nhiên, những khác
biệt này hầu như không tăng tính thuyết phục cho suy đoán ở phương Tây rằng Bắc
Kinh và Moskva đang trở nên xa cách. Lý thuyết này đôi khi xuất hiện trong các
bình luận của phương Tây trong vòng 2 năm qua, do quan hệ giữa Nga với Mỹ và EU
đã xấu đi bởi cuộc khủng hoảng ở Syria và Ukraine. Tuy nhiên, mặc dù còn tồn đọng
một số khác biệt, Trung Quốc và Nga chia sẻ mong muốn phát triển quan hệ song
phương vững chắc và hiểu rằng họ cần phải chung tay vì mục tiêu an ninh và phát
triển quốc gia. Hợp tác của họ có lợi cho cân bằng trong hệ thống quốc tế và có
thể hỗ trợ giải quyết một số vấn đề quốc tế. Lúc thuận lúc không, nhưng họ có
thể thừa nhận và quản lý các bất đồng của họ trong khi tiếp tục mở rộng các
lĩnh vực đồng thuận. Như Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã ghi nhận, mối
quan hệ Trung – Nga đưa ra một cách tiếp cận mới trong việc tiến hành quan hệ đối
ngoại và thể hiện một mô hình khả thi để các nước khác noi theo.
Các cuộc khủng hoảng ở
Syria và Ukraine đã làm sáng tỏ cách thức mà Trung Quốc và Nga đã quản lý một
cách hiệu quả quan hệ đối tác của họ. Nhiều người ở Mỹ cho rằng thái độ của
Trung Quốc đối với cuộc xung đột ở Ukraine là không rõ ràng hoặc nghi ngờ Trung
Quốc đứng về phía Nga. Trên thực tế, sau khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014,
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rõ ràng rằng sự độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine cần được tôn trọng. Trung Quốc nhấn mạnh
tất cả các bên liên quan trong cuộc xung đột Ukraine nên giải quyết sự khác biệt
của họ thông qua đối thoại, thiết lập các cơ chế phối hợp, kiềm chế các hoạt động
có thể làm trầm trọng thêm tình hình, và hỗ trợ Ukraine duy trì sự ổn định kinh
tế và tài chính. Trung Quốc đã không thể hiện lập trường: tính công bằng và
khách quan đóng vai trò kim chỉ nam cho Bắc Kinh khi giải quyết các vấn đề quốc
tế.
Nhưng các nhà ngoại
giao và các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng lưu tâm đến yếu tố dẫn đến cuộc khủng
hoảng này, bao gồm hàng loạt các “cuộc cách mạng màu” tại các quốc gia hậu Xô
Viết do phương Tây hậu thuẫn và áp lực từ việc mở rộng về phía đông của NATO
lên Nga. Điều đáng chú ý là các vấn đề lịch sử, sắc tộc, tôn giáo, và lãnh thổ
phức tạp giữa Nga và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã tồn tại từ lâu. Khủng
hoảng Ukraine là kết quả của tất cả những yếu tố này. Như cách nói của chủ tịch
Tập, cuộc khủng hoảng này “không bỗng dưng mà đến.”
Về vấn đề Syria, quan
điểm của Bắc Kinh là Nga tiến hành can thiệp quân sự theo yêu cầu của chính phủ
Syria nhằm chống lại lực lượng khủng bố và cực đoan. Mặc dù Washington đã kêu gọi
Tổng thống Syria Bashar al-Assad từ chức, Trung Quốc đồng tình với mục tiêu của
Nga nhằm đương đầu với nước Hồi giáo (còn được gọi là ISIS). Vì vậy, một mặt,
Hoa Kỳ đã chỉ trích sự can thiệp của Nga, nhưng mặt khác, bày tỏ sẵn sàng hợp
tác với Nga trong công cuộc chống khủng bố. Động thái của Nga sau đó không hoàn
toàn đáp lại chính xác những gì mà Hoa Kỳ muốn nhưng cũng không phải là một điều
hoàn toàn gây tổn hại cho lợi ích của Mỹ. Theo quan điểm của Trung Quốc, Nga và
Mỹ chia sẻ lợi ích trong việc đối phó những kẻ khủng bố tàn bạo của ISIS. Hy vọng
ở Trung Quốc là cuộc đàm phán giữa Nga, Hoa Kỳ, Iran, cùng nhiều cường quốc
khác trong khu vực sẽ đạt được tiến bộ trong việc giải quyết cuộc xung đột.
Nhưng rất khó xác định
hợp tác Mỹ – Nga tại Syria có thể đi xa đến đâu nếu không có một sự hiểu biết
thống nhất về điều gì mang đến hòa bình và trật tự. Và nhiều người ở Trung Quốc
cảm thấy khó hiểu bởi nhận thức của Mỹ và Nga vẫn còn ảnh hưởng quá nặng nề bởi
Chiến tranh Lạnh. Các chính trị gia và nhà bình luận Mỹ có xu hướng nói về Nga
như đối thủ bại trận thời Chiến tranh Lạnh. Trong khi đó, các quan chức và quan
sát viên Nga thường xuyên chỉ trích hành vi của Washington là kiêu ngạo hay
mang tính đế quốc. Một số nhà phân tích ở cả hai bên còn cho rằng đối đầu giữa
Moskva và Washington về Syria và Ukraine có thể dẫn đến một cuộc Chiến tranh Lạnh
mới. Nhưng theo phía Trung Quốc nhận định, các cuộc đối đầu hiện tại có vẻ giống
như một kết thúc kéo dài của cuộc Chiến tranh Lạnh trước đây. Liệu Moskva và
Washington có nhân cơ hội này để cuối cùng chấm dứt mối thù hằn cũ hay không vẫn
còn chưa rõ.
Vượt lên mối quan hệ
bên được bên mất
Do mối quan hệ giữa
Trung Quốc, Nga, và Hoa Kỳ gắn bó mật thiết, không có phân tích quan hệ Trung –
Nga nào hoàn thiện mà không xem xét tình hình giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. So với
mối quan hệ Trung – Nga, mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington có quy mô rộng
và phức tạp hơn. Tổng GDP của 2 nước chiếm tới một phần ba GDP toàn cầu. Trong
năm 2014, thương mại Mỹ – Trung đạt gần 600 tỷ đô la, và tổng đầu tư hai bên vượt
mức 120 tỉ đô la. 37 năm trước, khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan
hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, không ai ngờ rằng một quan hệ đối tác mạnh mẽ như vậy
sẽ xuất hiện.
Nhưng không thể phủ
nhận những khó khăn về cơ cấu trong mối quan hệ này. Khác biệt đáng kể về giá
trị chính trị và giữa các hệ thống quản lý ở hai nước vẫn tồn tại. Và nhiều người
Mỹ cảm nhận sức mạnh kinh tế ngày một lớn và đi kèm với đó là ảnh hưởng quốc tế
ngày càng lớn của Trung Quốc là mối đe dọa tiềm tàng đối với vị trí lãnh đạo
toàn cầu của Washington. Trung Quốc đã nhanh chóng vươn lên trở thành thành nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới. Khi quân Mỹ xâm chiếm Iraq năm 2003, GDP của
Trung Quốc bằng khoảng 1 phần 8 của Hoa Kỳ. Vào thời điểm Mỹ rút khỏi Iraq 8
năm sau, GDP của Trung Quốc đã tăng lên bằng một nửa của Hoa Kỳ. Theo nhiều ước
tính, cho đến năm 2020, GDP của Trung Quốc sẽ ngang bằng GDP Hoa Kỳ. Những thay
đổi này đã dấy lên lo ngại ở Washington rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ đang đối đầu.
Tranh chấp về hoạt động xây dựng của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa, ở Biển
Đông, đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận sôi nổi về việc Hoa Kỳ cần phải đối
phó như thế nào với những gì một số học giả và nhà bình luận người Mỹ xem là chủ
nghĩa bành trướng. Trong khi đó, Bắc Kinh coi sự hiện diện của Mỹ với tàu quân sự
gần lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông là một hành động khiêu khích. Một số
cho rằng chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc có thể thay đổi từ sự tương tác
mang tính xây dựng tới kiềm chế ngăn chặn.
Những cuộc tranh luận
này làm nền cho chuyến thăm cấp nhà nước của chủ tịch Tập tới Washington tháng
9 vừa qua. Trong bài phát biểu tại chuyến thăm, Tập trực tiếp đề cập đến quan
điểm sự phát triển của Trung Quốc là một thách thức với vị thế lãnh đạo toàn cầu
của Hoa Kỳ. Chủ tịch Tập cho biết: “Con đường Trung Quốc đang theo là phát triển
hòa bình, và Trung Quốc không tạo ra bất cứ mối đe dọa nào cho các nước khác.
Ông cũng cho hay: “Mọi người nên từ bỏ những khái niệm như “bên được, bên mất”,
hay trò chơi kẻ thắng người thua, và thiết lập một khái niệm mới về phát triển
hòa bình và hợp tác đôi bên cùng có lợi. Trung Quốc phát triển là điều có lợi
cho toàn thế giới và cũng có lợi cho Hoa Kỳ. Hoa Kỳ phát triển mạnh cũng sẽ có
lợi cho thế giới và Trung Quốc. ”
Lãnh đạo Trung Quốc
cho rằng sự trỗi dậy nhanh chóng của đất nước này là nhờ hội nhập thành công
vào nền kinh tế thế giới. Họ nhìn nhận Trung Quốc như một kẻ thụ hưởng trật tự
quốc tế, với Liên Hợp Quốc nắm vị trí cốt lõi, và như một chủ thể ủng hộ mạnh mẽ
các nguyên tắc như bình đẳng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ
của các quốc gia mà Hiến chương Liên Hiệp Quốc nhấn mạnh. Trung Quốc hy vọng tập
trung vào phát triển kinh tế và xã hội trong nước trong tương lai và do đó đánh
giá cao việc duy trì một môi trường bên ngoài ổn định và hòa bình. Mặc dù Trung
Quốc quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình và sẽ phản ứng kiên quyết trước các hành
động khiêu khích, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, hoặc đe dọa đến quyền và lợi
ích, mục tiêu chính của nước này vẫn là đảm bảo duy trì hòa bình và ổn định. Và
Trung Quốc cam kết bảo vệ trật tự quốc tế và trật tự khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, cũng như tiếp tục hội nhập vào thế giới toàn cầu hóa.
Cải thiện quan hệ Mỹ
– Trung là một phần quan trọng trong nỗ lực ngoại giao của Trung Quốc. Tháng 9
năm ngoái đánh dấu chuyến thăm cấp nhà nước lần đầu tiên của chủ tịch Tập tới
Washington, nhưng ông và Tổng thống Mỹ Barack Obama trước đó đã gặp nhau năm lần
kể từ năm 2013 và nói chuyện qua điện thoại 3 lần. Tháng 6 năm 2013, khi hai
nhà lãnh đạo gặp gỡ tại hội nghị thượng đỉnh Sunnylands, California, họ đã nói
chuyện trong vòng hơn 7 giờ. Sau cuộc họp, Tập tuyên bố rằng Trung Quốc và Hoa
Kỳ sẽ theo đuổi một “mô hình quan hệ các nước lớn kiểu mới” mà ông định nghĩa
là một mối quan hệ dựa trên nguyên tắc không xung đột, không đối đầu, tôn trọng
lẫn nhau, và hợp tác đôi bên cùng có lợi. Hai nhà lãnh đạo kể từ đó tiếp tục cuộc
thảo luận về các chủ đề này: tháng 11 năm 2014 tại Bắc Kinh, họ đã tổ chức “đối
thoại Yingtai,” kéo dài gần 5 giờ. Và trong chuyến thăm chính thức của chủ tịch
Trung Quốc , Tập và Obama đã dành khoảng
9 giờ đàm thoại và tham dự các sự kiện cùng nhau. Những cuộc gặp gỡ dài giữa
hai nhà lãnh đạo đã giúp họ hiểu nhau và gạt bỏ đối đầu mà các nhà phân tích Mỹ
cho rằng không thể tránh khỏi.
Đặc biệt, chuyến thăm
nhà nước đã gặt hái được nhiều thành quả. Hai bên đã đạt được thỏa thuận về một
loạt các vấn đề, bao gồm phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, biến đổi khí hậu, y
tế toàn cầu, chống khủng bố, chống phổ biến hạt nhân. Tập và Obama cũng trao đổi
thẳng thắn về các vấn đề an ninh mạng – điểm tranh cãi nghiêm trọng giữa Bắc
Kinh và Washington; hai nhà lãnh đạo thể hiện rõ ý định của nước mình, nhất trí
thành lập một cuộc đối thoại chung cấp cao về vấn đề này, và cam kết hợp tác để
thiết lập một bộ quy tắc ứng xử an ninh mạng quốc tế. Đây là một minh chứng mạnh
mẽ rằng hai nước có thể thúc đẩy hợp tác toàn cầu về các vấn đề quan trọng.
Tất nhiên, Bắc Kinh
và Washington có thể tiếp tục có những bất đồng về vấn đề biển Đông, Đài Loan,
nhân quyền, chính sách thương mại, và nhiều vấn đề khác nữa. Những ý định liên
minh quân sự của Mỹ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương vẫn là mối lo ngại
chính đối với Trung Quốc, nhất là kể từ khi Washington công bố “xoay trục” hướng
về châu Á vào năm 2011. Một số đồng minh của Mỹ trong khu vực đã có tuyên bố chủ
quyền đối với lãnh thổ của Trung Quốc và vi phạm các quyền trên biển của Trung
Quốc (?), hy vọng rằng bằng cách lấy lòng Washington, họ có thể lôi kéo Hoa Kỳ
vào tranh chấp với Bắc Kinh. Đây là một con đường nguy hiểm, làm gợi nhớ tới của
“chính trị kiểu khối” trong Chiến tranh Lạnh.
Một số học giả ở
Trung Quốc và ở các nước khác cho rằng nếu
Hoa Kỳ khăng khăng áp đặt “chính trị kiểu khối” lên khu vực, Trung Quốc và Nga
nên xem xét ứng phó bằng cách hình thành một khối khác. Nhưng các lãnh đạo
Trung Quốc không chấp nhận lập luận như vậy. Trung Quốc không đi theo khối hoặc
liên minh, và những kế hoạch đó không phù hợp với nền văn hóa chính trị Trung
Quốc. Nga cũng không có ý định hình thành một khối như vậy. Trung Quốc và Nga
nên tuân theo nguyên tắc quan hệ đối tác hơn là xây dựng một liên minh. Trung
Quốc và Hoa Kỳ cần tiếp tục theo đuổi một mô hình mới của quan hệ giữa các nước
lớn và tạo điều kiện cho đối thoại, hợp tác và quản lý những khác biệt.
Ba mặt của mọi vấn đề
Quan hệ giữa Trung –
Nga – Mỹ hiện nay giống như một hình tam giác không đều, trong đó khoảng cách lớn
nhất giữa ba điểm là ở giữa Moskva và Washington. Trong tam giác này, quan hệ
Trung – Nga là tích cực và ổn định hơn cả. Mối quan hệ Mỹ – Trung thường xuyên
có thăng trầm, và quan hệ Mỹ – Nga trở nên rất căng thẳng, đặc biệt là do Nga
hiện phải đương đầu với các lệnh trừng phạt đáng kể của Mỹ. Trong khi đó, cả Bắc
Kinh và Moskva phản đối Washington sử dụng vũ lực và áp đặt các lệnh trừng phạt
đối với các nước khác và phản đối các tiêu chuẩn kép mà Hoa Kỳ áp dụng trong
các chính sách đối ngoại của mình.
Hoa Kỳ và các đồng
minh có thể cho rằng mối quan hệ ngày càng gần gũi giữa Trung Quốc và Nga là bằng
chứng của một kiểu tiền liên minh có ý định làm gián đoạn hoặc thách thức trật
tự thế giới do Mỹ dẫn đầu. Nhưng theo quan điểm của Trung Quốc, mối quan hệ ba
bên không nên bị coi là một trò chơi mà trong đó hai nước liên minh chống một.
Sự phát triển hài hòa của quan hệ Trung – Nga không có ý định làm tổn hại đến
Hoa Kỳ, và Washington cũng không nên tìm cách làm ảnh hưởng đến nó. Tương tự
như vậy, hợp tác Trung – Mỹ sẽ không bị ảnh hưởng bởi Nga, hay cũng không phải
được thúc đẩy bởi những căng thẳng giữa Moskva và Washington. Trung Quốc không
nên hình thành một liên minh dựa trên chính trị khối và cũng không cho phép bị
các nước khác lôi kéo làm đồng minh.
Trật tự quốc tế hiện
nay là nền tảng của sự ổn định toàn cầu – nhưng trật tự đó không hề hoàn hảo.
Năm 2005, Trung Quốc và Nga đã đưa ra tuyên bố chung về “trật tự quốc tế trong
thế kỷ 21”, kêu gọi một hệ thống quốc tế công bằng hơn, mà tính hợp pháp của nó
bắt nguồn từ các nguyên tắc và chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Tuyên bố chỉ rõ
rằng Bắc Kinh và Moskva đã chứng kiến sự phát triển quan hệ của họ từ chỗ không
tin tưởng và cạnh tranh tới trở thành đối tác và hợp tác, coi đó là một hình mẫu
để các nước gạt đi những khác biệt và hợp tác trên các lĩnh vực đạt được thỏa
thuận nhằm giúp thúc đẩy trật tự toàn cầu và giảm khả năng thế giới sẽ rơi vào
xung đột và chiến tranh giữa các nước lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét