Mấy tuần qua câu chuyện hạn hán, nắng nóng kéo dài gây thiếu
nước, nhiễm mặn, hư hại mùa màng tại vựa lúa lớn nhất Việt Nam – đồng bằng sông
Cửu Long đang làm nóng các diễn đàn tranh luận. Ngành chức năng dường như vẫn
chưa có một giải pháp tức thời nào cho thấy hiệu quả đáng kể. Nhà nước cũng buồn,
dân cũng rầu trước những rủi ro mà trước nay đã được cảnh báo từ rất lâu.
Chuyện sông Mekong và biến đổi khí hậu không phải chuyện mới.
Chuyện Trung Quốc nằm ở thượng nguồn sông Mekong, Việt Nam ở hạ nguồn – cái thế
“nguyền rủa” của địa lý lâu nay đã được báo chí lẫn các chuyên gia trong và
ngoài nước nghiên cứu, mổ xẻ rất nhiều. Tuy nhiên cho đến khi vùng đồng bằng
nhà mình chịu hạn, chịu thiên tai thì mọi thứ dường như mới thấm thía vào nhận
thức của nhà nước lẫn người dân. Có rất nhiều biểu hiện cho thấy Việt Nam nằm
trong tâm thế bị động trước vụ hạn hán lần này.
Thứ nhất chính là việc đưa ra các kế hoạch ứng phó, cho đến
nay dường như vẫn chưa phát huy hiệu quả. Còn nhớ, kịch bản biến đổi khí hậu
vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có từ lâu. Không biết có bao hàm cả kịch bản
thiếu nước ngọt cho dân sử dụng? Lẽ ra các viện nghiên cứu phải tìm cách, dưới
động lực hỗ trợ từ nhà nước, trước áp lực biến đổi khí hậu và thiên tai, đã phải
có những kế hoạch ứng phó khả dĩ để dân giảm thiệt hại đến mức tối đa. Chứ
không phải khi xảy ra việc vẫn loay hoay tìm cách.
Việc quản trị các con sông đa quốc gia như sông Mekong không
phải là chuyện dễ dàng. Bài học này được nhiều nước cả phương đông lẫn phương
tây chứng minh suốt quá trình phát triển của loài người. Việt Nam, với vai trò
một quốc gia hạ nguồn, có thể chịu nhiều tác động và thiệt hại, phải quyết liệt
đấu tranh để đạt được những thỏa thuận về các nguyên tắc ứng xử đối với việc sử
dụng nguồn nước. Có thể nhìn sang các con sông khác trên thế giới để lấy gợi ý
làm chính sách. Dù rất khó, nhưng nếu không làm, thì hậu quả về việc thiếu nước
là rất khó lường trước và ứng phó.
Thứ hai, cho đến lúc này nguyên nhân hạn hán vẫn chưa được
làm rõ một cách thuyết phục, ít nhất là trên các diễn đàn báo chí và dư luận.
Tôi lướt các tờ báo điện tử của Việt Nam mới thấy, phần nhiều các nhận định được
dẫn lại lời các chuyên gia Việt Nam cho rằng vùng hạ lưu Mekong gặp hạn là phần
lớn vì thượng nguồn vận hành nhiều nhà máy thủy điện của Trung Quốc. Lý thuyết
này không hề mới, nói trắng ra nó đã có từ hàng chục năm trước đây. Hình dung một
cách dễ hiểu, người ta cho rằng con sông Mekong như một mạch máu kéo dài từ
Trung Quốc đến Việt Nam. Các đập thủy điện như những vách ngăn, làm máu không đến
được ở các vùng hạ nguồn – đồng bằng sông Cửu Long. Nếu quả thật là như vậy, tại
sao không có những kế hoạch ứng phó từ trước đây?
Ngay cả việc yêu cầu Trung Quốc xả đập cứu hạ nguồn cũng
không được đánh giá một cách thuyết phục khiến dư luận phát sinh nhiều quan điểm
trái chiều. Một chuyên gia kinh tế ở Hà Nội có bài viết trên trang facebook cá
nhân nhận định không phải không có lý, rằng nước từ thượng nguồn (Trung Quốc)
không phải góp 100% vào dòng chảy Mekong. Nước tại đồng bằng sông Cửu Long được
tích tụ trên đường dòng nước Mekong đến đây, nhờ nước mưa, nước ngầm. Nghĩa là
có khoảng 10% nước thượng nguồn góp vào lượng hạ nguồn. Câu chuyện này có đúng
không? Phải chăng nhà mình, vì thiếu các nghiên cứu cụ thể và chi tiết đã “thần
thánh hóa” vai trò của Trung Quốc với nạn hạn hán ở Việt Nam.
Giả sử đúng là thượng nguồn Mekong chỉ góp phần nhỏ vào nước
sông Cửu Long, vậy nguyên nhân hạn hán ở khu vực này là từ đâu? Có giả thuyết
cho rằng là vì vùng Tây Nguyên cạn nước, vì đây là nơi đổ nước về đồng bằng
sông Cửu Long. Giả thuyết này không phải là không có lý. Có nhiều nguyên nhân
có thể khiến vùng nước tại Tây Nguyên, trước khi về Đồng bằng Sông Cửu Long đã
bị tác động tiêu cực.
Tôi chỉ đưa ra những nhận định mang tính cá nhân theo hiểu
biết thiển cận, chỉ mang tính gợi ý tham khảo vì tôi không phải một chuyên gia:
một là việc phát triển các khu công nghiệp, các dự án khai khoáng, khu thủy điện
tại Tây Nguyên khiến nguồn nước cạn kiệt. Các nhà máy thủy điện ở Tây Nguyên
lâu nay vẫn ám ảnh không ít người dân, có khi nay đã trở thành ác mộng. Ngành
công nghiệp khai khoáng bán ra tiền nhiều, nhưng tàn phá môi trường không phải
ít. Lượng nước cung cấp cho các dự án khai khoáng là rất lớn, trong khi khả
năng tái tạo nước thời gian qua có thể bị ảnh hưởng không nhỏ khi diện tích rừng
bị tàn phá ngày một gia tăng. Rừng giảm (vì nhiều nguyên nhân) cũng có thể khiến
mạch nước tại đây gặp vấn đề. Khu vực Tây Nguyên là một khu vực có diện tích rừng
bị thu hẹp rất đáng kể, theo các phương tiện truyền thông báo chí của Việt Nam.
Điều đó gợi ý về các hậu quả về mùa nắng thiếu nước, mùa mưa gây lũ quét tại
khu vực đồng bằng. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng vai trò của Tây Nguyên
không hề nhỏ đối với khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, nhưng dường như không được
nhắc đến đúng mức trong nạn hạn hán trong khu vực miền Tây Nam bộ của Việt Nam.
Cần có thêm những nghiên cứu và đánh giá cụ thể.
Trong khi chờ đợi các nghiên cứu chính thức, phải thành lập
các đơn vị hành động khẩn cấp, cần thiết kêu gọi sự hỗ trợ của các quốc gia
trong khu vực để có thể bảo vệ sinh kế của người dân miền đồng bằng. Song song
đó, phải tiến hành đánh giá một cách nghiên túc, có hiệu quả vai trò của thượng
nguồn Mekong, cũng như của vùng Tây Nguyên đối với nguồn nước đồng bằng sông Cửu
Long để có thể có đối sách trong dài hạn.
Nguồn: VOA Tiếng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét