Tác giả: Phạm Văn Tuấn
6- Napoléon và các trận chiến 1800-1807
Đối với nhiều người Pháp, Napoléon Bonaparte là con người của
Định Mệnh (the Man of Destiny), là nhà cai trị xuất sắc nhất trong lịch sử của
nước Pháp. Nhưng đối với các người khác của châu Âu, Napoléon lại là kẻ thù của
các nền độc lập quốc gia. Các chinh phục quân sự của Napoléon đã khiến cho nhiều
miền đất tự do khác phải quy phục nước Pháp, vì thế Napoléon bị gọi là “con người
ảm đạm trên lưng ngựa” (the Sinister Man on Horseback), một kẻ độc tài đế quốc
với tham vọng không bao giờ thỏa mãn. Các oán hận của các quốc gia và của người
dân châu Âu khác đã dần dần làm lung lay đế quốc của Napoléon Bonaparte.
Vào năm 1800, Sa Hoàng Paul của nước Nga đã thiết lập nên
Liên Minh Baltic của các quốc gia trung lập (the Baltic League of Armed
Neutrality) kết hợp các nước Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển và Nga, để chống lại nước
Anh. Sa Hoàng Paul còn muốn hợp tác với nước Pháp để đẩy người Anh ra khỏi vùng
đất Ấn Độ. Nhưng kế hoạch kể trên đã bị sụp đổ khi Sa Hoàng Paul bị ám sát, kế
nghiệp là Sa Hoàng Alexander I. Cũng vào mùa xuân năm 1800 này, Napoléon
Bonaparte đã đưa quân vượt qua dãy núi Alps, đánh bại quân đội Áo trên miền đất
Ý và qua Hiệp Ước Luneville (1801), nước Áo phải công nhận nước Ý thuộc quyền của
người Pháp và để Napoléon vẽ lại bản đồ của nước Đức.
Sau Hiệp Ước Luneville, chỉ còn nước Anh đối đầu với nước
Pháp. Nước Anh đã chiếm được các thuộc địa của Hòa Lan và Tây Ban Nha và hạm đội
Anh của Đô Đốc Nelson đã đẩy được người Pháp ra khỏi xứ Ai Cập. Năm 1802, Hòa Ước
Hòa Bình Amiens được ký kết, đã chỉ mang lại sự tạm thời đình chiến trong một
năm vì sau đó, Napoléon đang mưu toan thành lập một đế quốc thuộc địa tại hòn đảo
Haiti và vùng đất Louisiana thuộc Bắc Mỹ mà nước Tây Ban Nha đã nhường lại cho
nước Pháp vào năm 1800.
Tại xứ Haiti, đa số người da đen địa phương đã vui mừng khi
Hội Nghị Quốc Ước hủy bỏ chế độ nô lệ, nhưng khi các Tổng Tài đặt lại chế độ bất
công kể trên tại xứ Haiti thì Francois Toussaint L’ Ouverture (c. 1744-1803) và
Jean Jacques Dessalines (c. 1758-1806) đã cầm đầu các cuộc nổi dậy chống lại
người Pháp. Thêm vào đó, bệnh sốt vàng da đã gây tổn thất lớn lao cho quân đội
viễn chinh Pháp, khiến cho Napoléon phải bỏ dở kế hoạch chinh phục Mỹ Châu. Năm
1803, Napoléon đã bán miền đất Louisiana cho Hoa Kỳ với giá 80 triệu quan tiền.
Từ năm 1803 tới năm 1805, chỉ còn nước Anh là miền đất
Napoléon Bonaparte phải chinh phục và muốn vậy, người Pháp phải đổ bộ lên đất
Anh và ngược lại, người Anh muốn đánh bại Napoléon thì phải lập nên một liên
minh trên lục địa châu Âu. Vào thời gian này, Napoléon bắt đầu chuẩn bị công cuộc
xâm lăng nước Anh trên một quy mô rộng lớn. Gần 2,000 con tầu chiến Pháp được
thu về các hải cảng nằm giữa quân cảng Brest và thành phố Antwerp trong khi đó,
Đại Quân Pháp tập trung tại Boulogne. Nhưng khó khăn vẫn là làm sao vượt qua được
eo biển Channel và muốn vậy, người Pháp phải làm chủ được mặt biển.
Do Hải Quân Pháp còn thua kém Hải Quân Anh, hạm đội Pháp cần
tới sự giúp đỡ của Hải Quân Tây Ban Nha nhưng dù vậy, hai hạm đội này cũng chỉ
có thể đánh bại một hạm đội Anh. Vào tháng 12 năm 1804, đã có quyết định theo
đó các hạm đội Pháp và Tây Ban Nha sẽ tập trung tại quần đảo Antilles để nhử
cho hạm đội Anh tới đó mà tiêu diệt rồi về sau, trận đánh trên biển Channel mới
có hy vọng chiến thắng. Theo kế hoạch, hạm đội Pháp do Đô Đốc Pierre de
Villeneuve từ Địa Trung Hải đã tới quần đảo Antilles nhưng không thấy hạm đội
Tây Ban Nha, rồi hạm đội Pháp bị hạm đội của Đô Đốc Nelson săn đuổi. Đô Đốc De
Villeneuve phải cho đoàn tầu chạy về châu Âu, trú ẩn tại hải cảng Cadiz thuộc
nước Tây Ban Nha vào tháng 7-1805 rồi tại đó, bị hạm đội Anh bao vây. Bị
Napoléon cho là hèn nhát, De Villeneuve đành phải phá vòng vây và dù với sự trợ
giúp của một hạm đội Tây Ban Nha, hạm đội Pháp đã bị Hải Quân Anh tấn công bên
ngoài hải cảng Trafalgar vào ngày 21-10-1805. Mặc dù Đô Đốc Nelson bị tử thương
trong trận hải chiến này nhưng hai hạm đội Pháp và Tây Ban Nha đã bị hoàn toàn
phá hủy. Chiến thắng của Hải Quân Anh có tính quyết định, đã chấm dứt mọi hy vọng
xâm lăng các hải đảo Anh Cát Lợi của Napoléon và cho phép người Anh làm chủ được
mặt biển.
Trước khi trận Trafalgar xẩy ra, ba nước Anh, Áo và Nga đã lập
nên Liên Minh thứ ba chống lại nước Pháp, do sự vận động của Thủ Tướng William
Pitt trong khi đó, Napoléon muốn vẽ lại bản đồ của nước Đức bằng cách dẹp bỏ
hàng trăm thành phố và các vương quốc nhỏ để tạo ra các xứ miền nam, đặt dưới
quyền cai trị của nước Pháp.
Ngày 24-7-1805, Napoléon Bonaparte đã ra lệnh chuyển Đại
Quân từ Boulogne qua miền sông Danube và trong trận đánh tại Ulm vào tháng 10
năm đó, Napoléon đã bắt được 30,000 tù binh người Áo. Hầu Tước người Áo
Ferdinand chạy thoát với một toán kỵ binh nhỏ. Ngày 13-11, Napoléon tiến vào
Vienna. Ngày 02 tháng 12 năm 1805, Napoléon Bonaparte đã kín đáo và với tốc độ
chuyển quân thần tốc, đem lực lượng tăng cường đánh bất ngờ vào đạo quân liên hợp
Áo-Nga tại làng Austerlitz, gây nên thiệt hại cho địch quân là 27,000 người, so
với 9,000 người tổn thất của Pháp. Sau trận đánh lừng danh này, trên lục địa
châu Âu đã lan truyền lời nói của Napoléon : “Ta đã đánh bại đạo quân Nga và Áo
do hai Hoàng Đế chỉ huy”.
Trong vòng một tháng, Napoléon Bonaparte đã ép buộc Hoàng Đế
Hapsburg là Francis I phải ký Hòa Ước Pressburg theo đó nước Áo chấp nhận mất hết
ảnh hưởng tại nước Ý và nhường 2 miền Venetia và Dalmatia cho Napoléon, cũng
như bằng lòng để người Pháp cai quản các xứ Bavaria, Wurttemberg và Baden. Sau
đó, ngai vàng của dòng họ Bourbons tại vương quốc Naples đã được dành cho người
anh của Napoléon là Joseph. Vào tháng 7 năm 1806, Liên Bang Sông Rhine được
thành lập, bao gồm tất cả miền tây nước Đức và được đặt dưới quyền bảo hộ của người
Pháp.
Tháng 9 năm 1806, nước Phổ gây chiến với nước Pháp và vào
ngày 14 tháng 10 năm đó, các đạo quân Phổ đã bị Napoléon đánh bại tại Jena và
Auerstadt. Năm 1807, khi tiến quân vào thành phố Warsaw, Napoléon đã gặp bà Bá
Tước Marie Walewska, một người Ba Lan yêu nước, muốn kết hôn với Napoléon để nhờ
đó quốc gia Ba Lan được tái lập. Napoléon đã có với bà Walewska một đứa con.
Như vậy trên lục địa châu Âu chỉ còn một quốc gia chống đối
Napoléon là nước Nga. Tại Eylau, quân đội Nga đã cầm cự được với đạo quân của
Napoléon vào tháng 2-1807 nhưng rồi vào tháng 6 năm đó, đã phải bỏ chạy trước
quân đội Pháp sau trận đánh Friedland.
Sau các lần liên minh quân sự với nước Anh, Sa Hoàng
Alexander I của nước Nga đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản, nên đã hẹn gặp
Napoléon trên một cái bè thả nổi trên dòng sông Niemen tại Tilsit, một nơi biên
giới giữa hai xứ Nga và Đông Phổ. Hai hoàng đế Pháp và Nga đã ký một thỏa ước
chia đôi châu Âu và tạo nên lãnh địa hầu tước Warsaw (Grand Duchy of Warsaw) từ
các tỉnh Ba Lan được tách ra khỏi nước Phổ và lãnh địa này được Napoléon giao
cho một nước đồng minh của Pháp cai quản, đó là Vua xứ Saxony. Lãnh thổ của nước
Phổ nằm ở phía tây dòng sông Elbe thuộc quyền Napoléon và Napoléon có quyền
đóng quân trên đất Phổ cũng như giới hạn quân số của nước này là 42,000 người.
Napoléon Bonaparte đã đoạt được hàng loạt chiến thắng quân sự
nhờ thiên tài cầm quân của ông, nhờ các tướng lãnh tài giỏi và tinh thần chiến
đấu anh dũng của quân sĩ dưới quyền, và cũng nhờ các lỗi lầm, sơ sót của địch
quân. Từ nay, quân đội Pháp là lực lượng đáng sợ nhất và tiến bộ nhất của châu
Âu. Đạo quân này có những lính mới do chế độ quân dịch, với quân số mới vào khoảng
85,000 người mỗi năm và các tân binh được bổ sung vào các đoàn quân tinh nhuệ
cũ để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các sĩ quan Pháp dưới thời Napoléon được
thăng cấp trên căn bản khả năng hơn là thâm niên hay thế lực, và các cấp chỉ
huy này quan tâm tới tinh thần chiến đấu của binh sĩ hơn là lo áp dụng kỷ luật
nghiêm ngặt. Về phần quyết định trận đánh, Napoléon Bonaparte chỉ ra lệnh tấn
công khi lực lượng Pháp mạnh hơn hoặc bằng với lực lượng địch, và vào thời điểm
tấn công thì dùng yếu tố bất ngờ như vũ bão, như trong trận Austerlitz.
Vào đầu thế kỷ 19, quân đội Pháp có vẻ như vô địch nhưng thật
ra, vẫn có các khuyết điểm. Dịch vụ y tế tại mặt trận rất yếu kém khiến cho nhiều
người lính bị chết vì bệnh dịch, vì các vết thương không được chăm sóc cẩn thận.
Lương bổng trả cho người lính còn thấp và không đều đặn, việc tiếp liệu thất
thường, người và ngựa phải sống nhờ trên các miền đất bị chiếm đóng để tiết kiệm
các chi phí và không lệ thuộc nhiều vào các đoàn xe tiếp tế.
Từ nay, toàn thể châu Âu được coi như chia ra làm ba phần:
thứ nhất là Đế Quốc Pháp, bao gồm nước Pháp và các miền đất sát nhập kể từ năm
1789, thứ hai là các xứ vệ tinh của Pháp, cai trị bởi những người họ hàng của
Napoléon, và các quốc gia bị bắt buộc theo Pháp do thua trận, gồm các nước Áo,
Phổ và Nga, và thứ ba là ba nước Anh, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, nằm bên ngoài hệ
thống cai trị của Napoléon. Vào năm 1810, Bá Tước Bernadotte là một thống chế của
Napoléon, đã được người dân Thụy Điển mời làm vua của xứ họ, thay thế cho vị
vua không có con nối dõi ngai vàng. Và về sau, chính Tướng Bernadotte đã chủ
trương các chính sách của Thụy Điển chống lại Napoléon.
Tại miền trung của châu Âu, Napoléon đã ban ra các đạo luật
giải tán một số xứ chư hầu Đức, rồi tới năm 1806, Đế Quốc Thần Thánh La Mã (the
Holy Roman Empire) bị giải thể. Vị hoàng đế cuối cùng của Đế Quốc Thần Thánh La
Mã là Francis I, thuộc dòng họ Hapsburg, nay trở thành hoàng đế của nước Áo.
Napoléon đã tạo ra Liên Bang Sông Rhine (the Confederation of the Rhine) bao gồm
các miền đất bên ngoài nước Phổ và nước Áo.
Đế quốc Pháp của Napoléon Bonaparte đã mỗi năm một mở rộng và
Napoléon đã không do dự khi chỉ định các người trong dòng họ lên ngai vàng tại
các xứ sở rải rác của châu Âu. Năm 1806, người em trai Louis Napoléon lên làm
Vua xứ Hòa Lan. Anh Joseph Napoléon, sau hai năm làm Vua vương quốc Naples, nay
được chỉ định làm Vua xứ Tây Ban Nha từ năm 1808. Người em Jerome làm Vua xứ
Westphalie mới được thành lập năm 1807, còn các người em khác cũng không bị bỏ
quên. Em gái Caroline, người kết hôn với Thống Chế Joachim Murat, đã thay thế
anh Joseph, lên ngai vàng tại Naples vào năm 1808, còn một người em gái khác là
Elisa, có chồng là ông hoàng Lucca, được phong Nữ Bá Tước (grand duchess) miền
Tuscany năm 1809. Ngoài ra, người con riêng của bà Beauharnais là Eugène de
Beauharnais được giữ chức Phó Vương của vương quốc Ý Đại Lợi.
Napoléon Bonaparte cũng nghĩ tới người con nối dõi. Bà
Josephine bị ly dị sau cuộc hôn nhân 15 năm không con và vào năm 1810, Napoléon
đã kết hôn với công chúa Marie Louise, con gái của Vua Francis I, thuộc dòng họ
Hapsburg. Bà Marie Louise này đã có với Napoléon một đứa con trai, được gọi là
“Vua La Mã” (the king of Rome) nhưng về sau, đứa bé này đã không hề làm vua xứ
sở nào cả.
7- Đế Quốc Pháp sụp đổ
Chủ nghĩa đế quốc của Napoléon đã thể hiện rõ ràng qua “Hệ
Thống Lục Địa” (the Continental System). Đây là chương trình muốn điều hành nền
kinh tế của toàn thể châu Âu bằng các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự,
và qua một chính sách làm sao xây dựng nền xuất cảng của nước Pháp và làm tê liệt
nền kinh tế của nước Anh. Dưới ảnh hưởng của Pháp là các nước Đan Mạch, Na Uy,
Phổ và đế quốc Áo. 42 triệu người dân đã nằm dưới quyền hành của Napoléon
Bonaparte. Bên ngoài ảnh hưởng của Hoàng Đế Napoléon là các nước Anh, Nga, Thụy
Điển và Thổ Nhĩ Kỳ. Để triệt tiêu nước Anh, Napoléon đã ký đạo luật Berlin năm
1806, cấm đoán mọi mậu dịch với các hải đảo Anh và hạ lệnh bắt giữ mọi tầu biển
Anh cũng như tịch thu các tài sản, hàng hóa của người Anh. Nước Anh đã phản ứng
lại bằng cách bắt buộc các tầu biển trung lập phải trả thuế tại các hải cảng
Anh trước khi chở hàng qua nước Pháp.
Vào tháng 12 năm 1807, đạo luật Milan của Napoléon lại ra lệnh
bắt giữ mọi tầu thuyền trung lập tuân theo chính sách của nước Anh và như vậy,
các nước trung lập bị đẩy vào thế kẹt ở giữa. Kết quả của hai đạo luật kể trên
của Napoléon đã tạo nên một loại phong tỏa lục địa châu Âu. Chính sách “nước
Pháp là ưu tiên một” (France first) đã gặp thất bại nặng nề. Chỉ một số kỹ nghệ
của nước Pháp hưởng lợi qua “Hệ Thống Lục Địa”, như việc cấm nhập cảng đường ăn
từ các quần đảo Tây Ấn, đã làm phát triển củ cải đường (sugar beet). Ngược lại,
nền ngoại thương của nước Pháp với các quốc gia bên ngoài bị suy sụp. Thành phố
Bordeaux và các hải cảng nằm trên Địa Trung Hải trở nên tiêu điều, các nguyên
liệu bị khan hiếm chẳng hạn như bông gòn. Nạn thất nghiệp, phá sản và buôn lậu
gia tăng, nhất là tại xứ Hòa Lan, giá trị xuất cảng ra các thị trường hải ngoại
của nước Pháp bị giảm đi hơn một phần ba giữa các năm 1805 và 1813.
Mặt khác, Hệ Thống Lục Địa đã không làm sụp đổ nước Anh dù
cho người dân Anh đã phải chịu đựng nhiều thiếu thốn: thực phẩm nhập cảng giảm,
vật giá gia tăng, tiền tệ cung cấp không đủ cho sức cầu. Nhưng nước Anh đã vượt
qua được các khó khăn nhờ các cải cách kinh tế, nhờ sự vượt trội về Hải Quân và
Hàng Hải Thương Thuyền, nhờ các thị trường mới, phong phú hơn được mở ra tại
châu Mỹ, tại đế quốc Ottoman và tại châu Á, và cũng nhờ ngành buôn lậu vào lục
địa châu Âu. Nước Pháp của Napoléon vào thời kỳ này đã thiếu đi một lực lượng hải
quân đủ mạnh để bắt giữ các kẻ buôn lậu, thiếu thốn các đội ngũ nhân viên quan
thuế trong sạch điều hành các hải cảng và trong khi đó, quân đội Pháp lại rất cần
một số mặt hàng sản xuất từ các cơ xưởng của nước Anh, chẳng hạn các quân trang
bằng da và bằng vải.
Hệ Thống Lục Địa của Napoléon đã tạo ra các hậu quả xấu về
chính trị, kinh tế và quân sự khi vào năm 1807, Hoàng Đế Napoléon áp đặt các
chính sách của mình lên nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sau thời Cách Mạng
Pháp, các tư tưởng dân chủ của người Pháp, các tinh thần quốc gia của các xứ tại
châu Âu đã khiến cho người dân châu Âu dần dần nổi lên chống lại sự đô hộ của
Napoléon.
Vào năm 1808, Napoléon đã lật đổ dòng họ Bourbons của Tây
Ban Nha và thay vào bằng người anh Joseph làm vua xứ này. Việc áp đặt chế độ
quân chủ xa lạ và Hệ Thống Lục Địa lên nước Tây Ban Nha, việc hủy bỏ các đặc
quyền của giới quý tộc và tu sĩ địa phương, đã là các vi phạm vào các phong tục,
tập quán và niềm hãnh diện của người dân Tây Ban Nha, vì vậy một cuộc nổi loạn
đã xẩy ra vào ngày 2-5-1808 tại Madrid.
Cuộc nổi dậy Madrid của người dân Tây Ban Nha đã bị dập tắt
một cách tàn nhẫn nhưng từ nay cũng bắt đầu cuộc Chiến Tranh Bán Đảo (the
Peninsular War), gọi tên theo bán đảo Iberian. Các quân du kích Tây Ban Nha đã
phục kích quân đội Pháp, dùng thuốc độc bỏ vô các giếng nước, cũng như các cách
đánh lén khác. Quân du kích Tây Ban Nha còn được trợ giúp bởi quân đội Anh,
lãnh đạo do Sir Arthur Wellesley (1769-1852), người mà sau này là Hầu Tước
Wellington. Napoléon đã đổ hơn 300,000 quân vào chiến dịch Tây Ban Nha nhưng tới
năm 1812, khi quân Pháp xâm lăng nước Nga thì lực lượng du kích Tây Ban Nha đã
chiếm ưu thế. Năm 1813, Vua Joseph Napoléon phải rút lui vĩnh viễn khỏi Madrid
và Hầu Tước Wellington đã giải phóng được nước Tây Ban Nha rồi đưa quân tiến
sang miền nam nước Pháp.
Tại phía đông của nước Pháp, tinh thần quốc gia của người
dân nước Phổ đã phát triển. Hai anh em Jacob (1785-1863) và Wilhelm Grimm
(1786-1859) đã viết ra các chuyện thần tiên (fairy tales) trong khoảng các năm
1812-15, chứng tỏ được tính ưu việt của ngôn ngữ Đức, đồng thời nhà triết học
J.G. Fichte (1762-1814) cùng các nhà tiên tri về Quốc Gia Đức, đã bắt đầu đặt nền
móng cho các lý thuyết về Quốc Gia Đức Mới. Trong “Các bài nói với Dân Tộc Đức”
(Addresses to the German People, 1807-08), Fichte đã cho rằng Tiếng Đức là nguồn
của ngôn ngữ (Ursprache) và người dân Đức thuộc về một quốc gia cổ nhất và đạo
đức nhất (Urvolk). Như vậy phản ứng chống đối sự đàn áp của người Pháp bắt đầu
từ các nhà trí thức Đức và từ tầng lớp ưu tú. Sau đó, các tướng lãnh và các
chính khách có khả năng đã nắm quyền cai trị nước Phổ, là tiền thân của nước Đức
sau này. Tại nước Phổ, Tướng Gerhard von Scharnhorst (1755-1813) đã đứng đầu
các sĩ quan cao cấp, tổ chức lại quân đội cho có hiệu quả hơn và theo các
nguyên tắc dân chủ hơn. Giới hạn 42,000 quân do Napoléon ấn định cho xứ sở Phổ
đã được các sĩ quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện và tổ chức các đoàn tân
binh nhờ đó vào năm 1813, nước Phổ đã có hơn 150,000 binh lính sẵn sàng chiến đấu.
Đồng thời với các cải cách quân đội, việc tổ chức hành chính
và xã hội cũng được thực hiện tại nước Phổ do các ý kiến của Bá Tước Heindrich
Stein (1757-1831), một nhà quý tộc khai sáng thuộc miền Rhineland, nhờ đó các tỉnh
và thành phố được thêm quyền tự trị, các người Do Thái có thêm nhân quyền, chế
độ nông nô bị hủy bỏ do đạo luật tháng 10 năm 1807. Tinh thần quốc gia Đức đã
trỗi dậy.
Sau năm 1807, khi Sa Hoàng Alexander gặp gỡ Napoléon tại
Tilsit, các hành động của người Pháp đã khiến cho Hoàng Đế Nga nghi ngờ sự
thành thật của Napoléon Bonaparte. Tới năm 1809, khi quân đội Pháp chiếm đóng
nước Áo thì miền Balkan thuộc Nga bị đe dọa và việc cắt xứ Galicia của nước Áo
sát nhập vào lãnh địa hầu tước Warsaw đã đe dọa phần đất Ba Lan thuộc Nga.
Ngoài ra, còn có áp lực của người Pháp muốn người Nga tuân theo Hệ Thống Lục Địa.
Cuộc gặp gỡ giữa Sa Hoàng và Napoléon tại thành phố Đức Erfurt vào năm 1808 đã
không mang lại sự đồng ý giữa 2 nước Pháp và Nga, rồi xứ Oldenburg bị sát nhập
vào miền ảnh hưởng thuộc Pháp, cai trị do người em rể của Napoléon làm hầu tước.
Tất cả các sự kiện này đã gây nên cuộc xâm lăng nước Nga vào năm 1812 của
Napoléon.
Mùa xuân năm 1812, Napoléon Bonaparte đưa quân vào xứ Ba
Lan, đe dọa biên giới của Sa Hoàng Alexander rồi sau khi các thỏa hiệp không
thành, Đại Quân của Napoléon vào khoảng 453,000 người, đã vượt qua dòng sông
Niemen, tiến sang đất Nga. Quân đội Nga đã rút lui, áp dụng chiến lược “tiêu thổ
kháng chiến”. Mùa đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút
lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở tuyết trắng mênh mông với
các điều kiện sinh sống mà Napoléon chưa từng có kinh nghiệm. Hệ thống tiếp liệu
của người Pháp ở quá xa, làng mạc Nga đã bị đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới
khiến cho người và ngựa của lực lượng Pháp không thể tìm ra được các thực phẩm
thông thường. Một cận vệ của Napoléon đã phải ghi lại rằng : “à không tìm ra được
một cư dân nào, không bắt được một tù binh nào. Chúng tôi đang ở trung tâm của
xứ Nga không người cư ngụ và chúng tôi giống như một con tầu không có địa bàn, ở
giữa một đại dương rộng lớn, không biết điều gì sẽ xẩy ra chung quanh chúng
tôi”.
Vào ngày 7 tháng 9 năm 1812, Tư Lệnh lực lượng Nga là Tướng
Mikhail I. Kutuzov (1745-1813) đã dàn trận, đánh quân Pháp tại Borodino. Trận
chiến rất đẫm máu, tàn ác và không phân thắng bại. Napoléon muốn kết thúc cuộc
chiến thật nhanh mà không được. Một tuần lễ sau, Napoléon đã tiến vào thành phố
Moscow, nơi mà người Nga rút lui sau khi đã đốt cháy mọi cơ sở. Sa Hoàng
Alexander nhất định không chịu thương thuyết. Việc rút quân Pháp bị coi là bắt
buộc. Mùa đông đã tới sớm trên đất Nga. Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì
thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy
phá và bị tấn công bởi “Đại Tướng Mùa Đông” (General Winter). Sau cuộc rút quân
vượt qua sông Berezina vào tháng 11, lực lượng chính của Napoléon chỉ còn ít
hơn 20,000 lính đói ăn và rách rưới tả tơi. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì
lạnh, vì bệnh tật, một số lớn bị bắt làm tù binh. Vào lúc này, các lãnh tụ Nga
cũng e ngại Napoléon sẽ giải phóng các nông nô để họ nổi lên chống lại các địa
chủ, nhưng những người nông dân bần cùng này đã tham gia vào các đội quân du
kích, đánh phá quân đội Pháp. Khi lực lượng Pháp đang rút lui thảm bại, Tư Lệnh
Nga là Tướng Kutuzov muốn để các nước đồng minh của Nga tiếp tục đánh quân Pháp
nhưng Sa Hoàng đã ra lệnh cho đạo quân Nga truy kích quân Pháp qua cả biên giới
của nước Nga.
Sự thất trận của Napoléon Bonaparte trên đất nước Nga đã làm
phấn khởi các dân tộc của châu Âu. Tại nước Đức, đã có các cuộc biểu tình chống
Pháp. Các lính quân dịch Đức bị bắt buộc phục vụ trong Đại Quân Pháp đã đào ngũ
và tham gia vào lực lượng quân sự chống đối. Người Áo cũng rút về quân đội của
họ và có thái độ thù nghịch với người Pháp còn tại nước Ý, người dân đã vùng
lên phản kháng. Tại Paris, trong cuộc đảo chính vào ngày 23-10-1812, đã có công
bố rằng Napoléon bị chết trận tại nước Nga. Tất cả các yếu tố này đã khiến cho
Napoléon Bonaparte vội vã rút lui trở về Pháp trước cả Đại Quân. Trong cuộc xâm
lăng nước Nga, gần 500,000 binh lính của Napoléon đã bị chết, hoặc đào ngũ hay
bị bắt làm tù binh.
Napoléon Bonaparte trở về tới Paris vào ngày 18 tháng 12 và
đã công nhận cuộc thảm bại trong bản thông cáo số 29 (the 29th Bulletin). Dù vậy,
dân chúng Pháp vẫn còn ủng hộ Napoléon. Chế độ độc tài một lần nữa lại được củng
cố và Napoléon tổ chức lại các đội quân mới.
Từ năm 1813, người dân của các xứ sở khác nhau của châu Âu
đã nổi lên chống lại người Pháp vì nền Tự Do của họ, giống như người Pháp đã
tranh đấu vì Tự Do trong các năm 1792 và 1793, và vào lúc này, niềm phấn khởi của
người dân Pháp khi trước đã không còn. Lý tưởng chinh phục của Hoàng Đế
Napoléon không còn được dân chúng Pháp hậu thuẫn.
Sau khi rút lui khỏi nước Nga, Napoléon Bonaparte lại phải
đương đầu với liên minh quân sự mới gồm các nước Anh, Nga, Áo, Phổ và Thụy Điển.
Tháng 4-1812, Napoléon với các đạo quân mới, đã đánh thắng quân Nga và quân Phổ
tại các trận Lutzen, Bautzen và Dresden nhưng lực lượng của Liên Quân đông hơn.
Đại Quân của Napoléon rất cần được tăng cường nhưng không thể thực hiện nổi việc
bổ sung quân số. Do sự trung gian của nước Áo, một hội nghị các nước liên minh
chống Pháp được tổ chức tại Prague và giải pháp do Bộ Trưởng Ngoại Giao
Metternich đề nghị là Đế Quốc Pháp phải rút lui về các biên giới thiên nhiên
cũ, lãnh địa hầu tước Warsaw cùng Liên Bang Sông Rhine phải bị giải tán và nước
Phổ lấy lại được các biên giới của năm 1805. Trong hoàn cảnh này, Napoléon đã
phạm phải một sai lầm, là đã do dự quá lâu. Hội nghị kể trên đã bế mạc vào ngày
10-8 trước khi bản văn trả lời của Napoléon tới nơi. Nước Áo bèn tuyên chiến.
Trong cuộc chiến tranh chống lại Napoléon, nước Anh là quốc
gia đầu tiên đã đánh thắng người Pháp tại Trafalgar và trên các mặt trận kinh tế
của Hệ Thống Lục Địa. Sau đó là các thất bại của Napoléon tại nước Tây Ban Nha
và tại nước Nga. Quân đội Pháp càng ngày càng suy kém đi. Các người lính quân dịch
Đức đã dần dần đào ngũ, bỏ chạy qua phía liên minh chống Pháp. Napoléon cố gắng
xây dựng lại một đạo quân mới, nhưng đã không thể thay thế các trang bị thiệt hại
trên đất Nga. Cuộc sụp đổ nặng nề nhất của Napoléon Bonaparte là “Trận chiến
Leipzig” hay “Trận chiến của các Quốc Gia” (the Battle of the Nations) diễn ra
vào các ngày 16 tới 19 tháng 10 năm 1813, tại đó Đại Quân (Grand Armée) Pháp đã
bị đập nát tan tành. Các đoàn quân Pháp tại Tây Ban Nha đã phải rút lui sau các
thất trận vào tháng 6, rồi quân đội Anh tấn công quân Pháp tại phía bắc của miền
Pyrenées. Tại nước Ý, quân Áo đã vượt qua dòng sông Adige, chiếm Romagna và Thống
Chế Murat, vị tướng duy nhất phản bội Hoàng Đế Napoléon, đã ký giao ước với triều
đình Vienna. Các người Bỉ và Hòa Lan cũng nổi lên chống lại người Pháp.
Vào tháng 1 năm 1814, nước Pháp bị tấn công tại tất cả các
biên giới. Các nước liên minh đã khôn khéo tuyên bố rằng họ chỉ chống lại cá
nhân ông Napoléon. Tại chính nước Pháp, Quốc Hội Lập Pháp và Thượng Viện Pháp,
trước kia dễ dàng vâng lời Napoléon, thì nay lại đứng lên đòi hỏi hòa bình và
các tự do chính trị, dân sự.
Qua Hiệp Ước Chaumont ký vào tháng 3-1814, các nước Áo, Anh,
Nga và Phổ đã đồng ý không thương thuyết riêng lẻ với nước Pháp trong 20 năm,
cho tới khi nào Napoléon bị lật đổ. Khi thua trận Leipzig, Napoléon đã phải rút
về và liên quân đã tiến vào thành phố Paris vào ngày 30 tháng 3. Các người có
chức quyền của thành phố Paris vào lúc này không còn e sợ Hoàng Đế Napoléon nữa,
họ tìm cách bắt liên lạc với liên minh quân sự. Là nhà lãnh đạo của chính phủ
lâm thời, ông Talleyrand đã đề nghị việc truất phế Hoàng Đế Napoléon và rồi
không tham khảo ý kiến của dân chúng Pháp, ông ta đã thương thuyết với Louis
18, người em của vị Vua Pháp bị hành quyết là Louis 16. Khi Napoléon rút quân về
tới Fontainebleau thì được tin thành phố Paris đã đầu hàng lực lượng Liên Minh.
Được khuyên nhủ việc chống trả sẽ vô ích, Hoàng Đế Napoléon cuối cùng đồng ý
thoái vị vào ngày 11-4-1814.
Do Hiệp Ước Fontainebleau, các nước liên minh đồng ý giao
cho Napoléon cai quản một tiểu vương quốc là hòn đảo Elba, nằm tại phía tây bắc
của bờ biển Ý Đại Lợi, với lợi tức hàng năm là 2 triệu quan do nước Pháp cung cấp
và một đội quân bảo vệ gồm 400 người tình nguyện, và ông Napoléon vẫn giữ được
danh hiệu Hoàng Đế. Sau lần dự mưu tự vẫn bằng độc dược không thành công,
Napoléon Bonaparte ngỏ lời từ biệt “Toán quân cận vệ cũ” (the Old Guard), qua sống
tại đảo Elba. Vợ và con trai của ông được gửi về nuôi bên người cha vợ, là
Hoàng Đế Francis I của nước Áo. Napoléon không bao giờ được gặp lại hai người
thân này.
Sau cuộc chiến thắng Napoléon, các chính khách của Liên Minh
đã hội họp tại Vienna để phác thảo ra kế hoạch hòa bình. Vua Louis 18, thuộc
dòng họ Bourbon, lên ngai vàng của nước Pháp và đã ban ra đạo dụ năm 1814, thiết
lập nên chế độ quân chủ lập hiến. Đã xẩy ra cuộc “khủng bố trắng” của phe bảo
hoàng đối với các người Cách Mạng Pháp cũ.
Việc phục hưng dòng họ Bourbon đã sớm bị dân chúng Pháp chỉ
trích. Mặc dù vào năm 1814, người dân Pháp chán nản trước Hoàng Đế Napoléon
nhưng họ cũng không mong muốn sự trở về của phe bảo hoàng, vì Vua Louis 18 đã
lên ngai vàng do sự trợ giúp của các người ngoại quốc. Người dân Pháp vào lúc
này vẫn còn lưu luyến các thành quả của Cách Mạng. Bắt đầu có các âm mưu chống
đối chính quyền hoàng gia mới.
Tại đảo Elba, Napoléon vẫn theo dõi các tiến triển trên lục
địa. Vì vào lúc này, các nhà chính trị tại Vienna đang trù liệu về số phận của
châu Âu và họ coi đảo Elba quá gần với nước Pháp và nước Ý, nên họ muốn đầy
Napoléon tới một hòn đảo thật xa trong Đại Tây Dương. Napoléon cũng phản đối nước
Áo đã ngăn trở không cho vợ con theo sống với ông trên đảo. Thực ra, bà Marie
Louise lúc này đã có một người tình nên không có ý định đi theo chồng, và thêm
vào đó, chính phủ Pháp cũng từ chối trợ cấp tài chính cho Napoléon, khiến cho
ông lâm vào hoàn cảnh túng thiếu. Tất cả những yếu tố kể trên đã đưa đẩy
Napoléon phải hành động.
Vào tháng 2 năm 1815, Napoléon Bonaparte cùng với 1,100 người
theo đi đầy trước kia, đã xuống tầu, rời đảo Elba, tìm đường qua đất Pháp. Ngày
1 tháng 3 năm đó, họ đổ bộ tại Cannes và rồi tiến về thành phố Paris. Khi vượt
qua rặng núi Alps, Napoléon đã được các nông dân cộng hòa vây quanh tán thưởng.
Một đạo quân được phái đi từ Paris do Thống Chế Michel Ney chỉ huy, để bắt
Napoléon nhưng khi những người này gặp lại vị lãnh tụ cũ của họ, họ đã hoan hô
Napoléon Bonaparte như là vị Hoàng Đế và tham gia vào đoàn quân mới. Trước tình
thế mới, Vua Louis 18 bỏ chạy. Ngày 20-3, Napoléon Bonaparte tiến vào thành phố
Paris và được đám đông dân chúng khiêng lên, đưa vào Điện Tulleries. Ngay sau
đó, Napoléon đã công bố một hiến pháp mới có tính giới hạn các quyền hành của
ông, và ông cũng hứa với các nước liên minh rằng ông sẽ không gây chiến. Nhưng
các nhà lãnh đạo của các nước liên minh vẫn coi Napoléon là “kẻ thù và kẻ quấy
phá nền hòa bình của thế giới”. Vì vậy, cả hai phe lại chuẩn bị chiến tranh.
Để chống lại các đạo quân liên minh tập trung tại biên giới
nước Pháp, Napoléon đưa 125,000 quân sang nước Bỉ. Ngày 16-6, Napoléon đánh bại
Thống Chế Gebhard von Blucher của nước Phổ tại Ligny, gần Fleurus. Ngày 18-6 tại
Waterloo, Napoléon tấn công đạo quân Anh dưới quyền Tướng Wellington, là kẻ chiến
thắng tại cuộc Chiến Tranh Bán Đảo. Trận chiến tàn sát đã diễn ra. Hàng ngàn kỵ
binh Pháp đã xông trận và Napoléon sắp sửa chiến thắng thì đạo quân Phổ của Thống
Chế Blucher tiến đến, tăng cường cho đạo quân Anh, và mặc dù đạo quân cận vệ cũ
(the Old Guard) đã chiến đấu rất kiên cường, Napoléon đã bị thua trận vì bị địch
quân quá đông áp đảo. Napoléon bị thiệt hại 25,000 lính chết và bị thương,
9,000 lính bị bắt. Tổn thất của Tướng Wellington là 15,000 quân và của Thống Chế
Blucher vào khoảng 8,000 người. Waterloo trở nên một trong các trận đánh danh
tiếng nhất trong Lịch Sử.
Napoléon Bonaparte bỏ chạy về Paris và phải thoái vị lần thứ
hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815. Thời gian Napoléon trở về Paris từ đảo Elba tới
khi ông thoái vị lần này, được gọi là “Giai đoạn 100 ngày”. Ngày 3 tháng 7,
Napoléon đã tới Rochefort, định tìm đường trốn qua châu Mỹ nhưng con tầu chiến
của nước Anh tên là Bellerophon, do Đại Tá Frederick Lewis Maitland chỉ huy, đã
ngăn chặn, không cho con tầu Pháp chở Napoléon rời khỏi bến cảng. Napoléon đành
phải kêu gọi sự bảo vệ an ninh của người Anh. Các nước liên minh lần này cùng đồng
ý về một điểm: ông Napoléon Bonaparte sẽ không được trở về đảo Elba nữa mà bị
đưa tới một hòn đảo rất xa. Sau đó chính quyền Anh công bố rằng hòn đảo Saint
Helena tại phía nam Đại Tây Dương đã được chọn làm nơi cư ngụ cho cựu hoàng.
Ngày 15 tháng 10 năm 1815, Napoléon cùng với một số người
tình nguyện theo đi đầy, đã bước lên hòn đảo St. Helena, gồm có: Tướng
Henri-Gratien Bertrand, nguyên thống chế bản doanh với vợ, Bá Tước Charles de
Montholon, tùy viên với vợ, Tướng Gaspard Gourgaud, ông Emmanuel Las Cases, cựu
nhân viên cao cấp hoàng gia, và một số tùy tùng cũ. Sau một thời gian ngắn cư
ngụ tại ngôi nhà của một thương gia Anh giàu có, Napoléon Bonaparte dọn tới nhà
của vị toàn quyền hòn đảo xây dựng tại Longwood.
8- Ngày tàn của Hoàng Đế Napoléon
Napoléon Bonaparte trở về với đời sống buồn tẻ hàng ngày. Mỗi
ngày ông thức dậy trễ vào khoảng 10 giờ sáng và ít khi bước chân ra khỏi nhà.
Ông được tự do đi lại trên đảo nhưng với điều kiện phải có một sĩ quan người
Anh đi kèm. Ông đã không chịu chấp nhận điều kiện này mà ở trong nhà đọc sách
và nói chuyện với các người thân cận cũ. Người thư ký của ông là Las Cases đã
ghi chép lại các lời tường thuật của vị cựu Hoàng Đế Pháp để về sau, biên soạn
thành sách.
Buổi tối từ 7 tới 8 giờ, Napoléon dùng cơm chiều, sau đó
dành thời giờ chơi bài hay đọc sách. Ông ưa thích các tác phẩm cổ điển. Ông
cũng học tiếng Anh và bắt đầu đọc được báo chí Anh nhưng ông cũng có nhiều sách
Pháp từ lục địa gửi qua, và ông đã đọc chăm chú các cuốn sách này cùng ghi thêm
các lời nhận xét.
Saint Helena là một hòn đảo khí hậu tốt nhưng một nhân vật
đã từng dọc ngang chinh phục khắp châu Âu trong 20 năm trường làm sao chịu đựng
được cảnh cô quạnh, giam hãm trên một hòn đảo hẻo lánh. Napoléon Bonaparte lại
không được tin tức gì về vợ và con, biết đâu rằng Hoàng Hậu Marie Louise đã lập
gia đình một cách lén lút với một sĩ quan người Áo tên là Graf Adam von
Neipperg mà không đợi tới lúc ông chết. Người con trai của ông, sinh ngày
20-3-1811 có tên là Francois Charles Joseph Bonaparte, lúc sinh ra đã có danh
hiệu “Vua La Mã” (King of Rome), thì nay trưởng thành và sinh sống như một tù
nhân hoàng gia dưới sự canh chừng của ông ngoại là Hoàng Đế Áo Francis I. Thời
đó, các chính khách của phe liên minh vẫn e ngại các người ủng hộ Napoléon sẽ lợi
dụng danh nghĩa của cậu con trai này để mưu cầu quyền lực tại nước Pháp nên
Francois Bonaparte được đổi tên thành Hầu Tước Reichtadt.
Từ tháng 4 năm 1816, Sir Hudson Lowe tới đảo St. Helena làm
toàn quyền, đã khiến cho đời sống của Napoléon khó chịu thêm. Napoléon trước
kia đã không ưa gì ông Lowe, là người đã từng chỉ huy toán quân xung kích trên
đảo Corsica và đây là nhóm lính tình nguyện phần lớn căm thù gia đình
Bonaparte. Sir Lowe cũng hiềm khích với ông Las Cases, người tin cẩn của
Napoléon và đã tìm cách bắt bớ ông này rồi trục xuất khỏi đảo. Vì vậy, liên lạc
giữa Napoléon và vị toàn quyền đã trở nên căng thẳng.
Tới cuối năm 1817, đã có dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng
Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao
tử. Vị bác sĩ người Ái Nhĩ Lan là ông Barry O’ Meara đã từng khuyên Napoléon
thay đổi lối sống, nay bị thuyên chuyển đi nơi khác. Thay thế là một bác sĩ tầm
thường, gốc thuộc đảo Corsica với tên là Francesco Antommarchi, đã cho thuốc cựu
Hoàng Đế nhưng không làm sao điều trị được thứ bệnh nan y vào thời đại đó.
Đầu năm 1821, căn bệnh của Napoléon trở nên trầm trọng thêm.
Từ tháng 3, vị cựu Hoàng Đế bị nằm liệt giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã
đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu : “Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm
bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước
thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh (the English oligarchy) và do các kẻ
sát nhân được thuê mướn”.
Ngày 5 tháng 5 năm 1821, cựu Hoàng Đế Napoléon đã thều thào
câu nói : “Thượng Đế của tôi, Nước Pháp, con trai của tôi, vị chỉ huy quân đội”.
Napoléon đã qua đời lúc 5:49 giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi
thể của ông được mặc vô bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm
áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận đánh Marengo. Đám
tang của ông được tổ chức đơn giản tại thung lũng Rupert, nơi ông thường đi tản
bộ và trên nấm mộ bên cạnh 2 cây liễu rủ, có tấm đá ghi hàng chữ : “Nơi đây an
nghỉ “ (Ci-Git).
Vào năm 1840, Hoàng Tử Francois, con của Vua Louis-Philippe
nước Pháp, đã được phái đi trên một tầu chiến tới đảo St. Helena để mang về
Pháp di cốt của cựu Hoàng Đế Napoléon theo như ước nguyện cuối cùng của ông. Lễ
an táng rất trọng thể được tổ chức tại thành phố Paris vào tháng 12 năm đó, và
linh cữu của Napoléon Bonaparte được đưa qua Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) và
đặt tại Giáo Đường Du Dome (Eglise du Dome), một bộ phận của Đài Chiến Sĩ Trận
Vong (Hotel des Invalides).
Napoléon Bonaparte vừa là một nhân vật lịch sử, vừa là một
nhân vật huyền thoại và đôi khi, khó lòng tách biệt 2 đặc tính này vì các sự kiện
trong cuộc đời của ông đã từng làm bừng sống trí tưởng tượng của các văn sĩ
danh tiếng, các nhà viết kịch có tầm vóc lớn và các nhà làm phim đa tài, họ là
những người đã xây dựng nên các huyền thoại Napoléon.
Napoléon Bonaparte là một trong các vị lãnh đạo quân sự
thiên tài bậc nhất trong Lịch Sử. Người ta đã coi ông là kẻ chinh phục ham quyền
và chính Napoléon đã từng nói rằng ông không muốn chinh phục các dân tộc khác
mà chỉ muốn xây dựng một liên bang các dân tộc tự do của châu Âu với một chính
quyền cấp tiến. Nhưng vì mục đích này, Napoléon đã muốn tập trung mọi quyền lực
vào trong tay mình.
Tại châu Âu và tại nước Pháp, câu châm ngôn “Tự Do – Bình Đẳng
– Huynh Đệ” của cuộc Cách Mạng năm 1789 tuy chưa cho phép người dân Pháp thụ hưởng
đầy đủ nền Dân Chủ như trong thế kỷ 20, nhưng từ năm 1815, dân chúng Pháp đã được
đôi phần nào Tự Do hơn, giới trung lưu đã không còn gặp các giới hạn của chế độ
cũ cấm đoán, các người Tin Lành, Do Thái và các nhà tự do tư tưởng đã nhận được
sự dung thứ (toleration) trên miền đất Pháp và trên các xứ vệ tinh của Pháp. Hiến
Pháp năm 1815 của nước Pháp tuy chưa đáp ứng được các lý tưởng dân chủ liệt kê
qua Bản Tuyên Bố Dân Quyền (the Declaration of the Rights of Man) nhưng đã bao
gồm trong đó một hình thức mới về tính Dân Chủ.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng đặt ra căn bản về
quyền bình đẳng trước nghĩa vụ phải đóng thuế. Giai cấp thứ ba (the 3rd estate)
được cung cấp nhiều cơ hội kinh tế hơn, các trở ngại áp đặt vào các hoạt động
thương mại bị gỡ bớt, các phần đất rộng lớn của hai giai cấp quý tộc và tu sĩ bị
phân chia, truyền qua tay giới tư sản thành thị và giới nông dân giàu có. Tính
bình đẳng về tài sản (property) được xác nhận trong đạo luật Ventose của năm
1794 rồi về sau được bổ túc.
Cuộc Cách Mạng Pháp là một bước quan trọng trong việc đi lên
của giới tư sản trung lưu, thuộc cả về thành thị lẫn nông thôn. Bộ Luật
Napoléon sau đó đã chôn vùi mọi bất bình đẳng xã hội của chế độ cũ và cũng vì
thế, Napoléon đã nói : “Bất kể tôi là Tổng Tài Thứ Nhất hay là Hoàng Đế, tôi đã
là một vị Vua của dân chúng : tôi đã cai trị vì quốc gia, và vì lợi ích của quốc
gia mà không để chính mình bị thiên lệch vì lời phản đối hay vì các tư lợi của
một nhóm người nào”.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng làm thăng tiến
tình huynh đệ qua đó, mọi người dân Pháp được coi là bình đẳng trước Pháp Luật
và đồng thời cũng cổ động cho tinh thần quốc gia (nationalism), một tình cảm
thuộc về một quần thể rộng lớn hơn là nước Pháp, một quốc gia được người dân
coi là ưu đẳng hơn các quốc gia khác. Từ trước năm 1789, tinh thần quốc gia
Pháp đã tồn tại qua các nhân vật như Joan of Arc, Vua Henry IV và Vua Louis 14
để rồi về sau, tinh thần quốc gia đó lại thể hiện qua đạo luật tổng động viên
ngày 23-8-1793 của Hội Nghị Quốc Ước. Đế Chế Napoléon đã cho thấy tinh thần quốc
gia đã dễ dàng đưa đến chế độ “đế quốc” với tầm vóc lớn lao mà trước kia chưa từng
thấy.
Trong cuộc Cách Mạng Pháp, Robespierre và các đảng viên
Jacobin là những người làm chính trị không nhân nhượng, tiếp theo là các nhân vật
Thermidor và Brumaire trở nên thực tế hơn và ôn hòa hơn, rồi sau đó dưới thời
Napoléon, tinh thần cách mạng đã trở thành một loại “tôn giáo”, đòi hỏi tới đặc
tính chính thống chính trị (political orthodoxy), và tinh thần “quốc gia” sau
năm 1815 đã tạo nên “các chiến sĩ, các tông đồ và các người tử đạo” (martyrs) tại
nhiều nơi trên mặt đất.
Sau khi Napoléon Bonaparte qua đời, đã có các cuốn sách chê
trách cũng như ca tụng danh tiếng của vị cựu Hoàng Đế này. Nhà văn người Pháp rất
nổi danh và có cảm tình hoàng gia là ông Francois de Chateaubriand đã viết ra một
tác phẩm văn chương chỉ trích Napoléon, có tên là “Về Buonaparte và dòng họ
Bourbons, và sự cần thiết phải tập hợp quanh các ông hoàng chính gốc của chúng
ta, vì sự an toàn của nước Pháp và của châu Âu “ (De Buonaparte, des Bourbons
et de la nécessité de se rallier à nos princes légitime, 1814). Về sau vào năm
1870, khi Đế Chế Pháp thứ hai (the Second Empire) sụp đổ, cũng có các sách chê
trách Napoléon mà đại biểu là cuốn “Các nguồn gốc của nước Pháp hiện đại”
(Origines de la France contemporaine, 1876-94) của Hippolyte Taine. Napoléon
Bonaparte cũng bị các nhà lý trí (rationalist) thuộc nhóm Bách Khoa
(Encyclopédie) phê phán là “ông kẹ người đảo Corsica” (the Corsican ogre), người
đã dám hy sinh 500,000 đồng bào vì các tham vọng của mình.
Trái với các lời phê bình kể trên, các huyền thoại về
Napoléon Bonaparte đã phát triển rất mau. Các cuốn hồi ký, tường thuật, ghi
chép của những người đi đầy theo cựu Hoàng Đế đã đóng góp rất đáng kể vào việc
tạo dựng nên các huyền thoại đó. Ngay từ năm 1814, đã có các thơ văn ca tụng
Napoléon, chẳng hạn như bài thơ ngắn của Lord Byron (Ode to Napoléon
Bonaparte), bài thơ “Die Grenadiere” (Người lính bộ binh) của thi hào người Đức
Henrich Heine. Cuộc đời của Napoléon được mô tả lại qua tác phẩm “Vie de
Napoléon” của tiểu thuyết gia người Pháp Stendhal vào năm 1817.
Năm 1822, Bác Sĩ O’Meara đã cho xuất bản tại London cuốn
sách “Napoléon trong cảnh tù đầy” (Napoléon in Exile) rồi năm sau, 1823, xuất
hiện cuốn sách của Montholon và Gourgard với tên là “Hồi Tưởng để dùng cho lịch
sử của nước Pháp dưới thời Napoléon, viết tại Sainte-Helène do Hoàng Đế đọc ra”
(Mémoires pour servir à l’histoire de France sous Napoléon, écrits à
Sainte-Helène sous sa dictée). Người thư ký riêng của Napoléon là ông Las Cases
cũng trình bày cựu Hoàng Đế như là một người cộng hòa, đã chống lại châu Âu để
bảo vệ Tự Do, qua tác phẩm nổi tiếng “Hồi Tưởng” (Memorial). Cuốn sách “Các giờ
phút cuối của Napoléon” (Derniers moments de Napoléon) của Bác Sĩ Antommarchi
cũng được in ra vào năm 1825 và con số các tác phẩm ca tụng Napoléon đã gia
tăng rất nhiều, đáng kể là bài thơ ca ngợi của Victor Hugo (Ode à la Colonne),
trong toàn tập 28 cuốn “Các vinh quang và chinh phục của người Pháp” (Victoires
et conquêtes des Francais), và tác phẩm của Sir Walter Scott “Cuộc đời của
Napoléon Bonaparte, Hoàng Đế của người Pháp” (Life of Napoleon Bonaparte,
Emperor of the French).
Napoléon Bonaparte là một nhân vật đã để lại nhiều định chế
lâu bền mà trên đó nước Pháp ngày nay vẫn còn được xây dựng, đó là hệ thống
hành chính của các tỉnh (prefects), Bộ Luật Napoléon, hệ thống tư pháp, Ngân
Hàng Pháp Quốc và tổ chức tài chính quốc gia, các đại học và các hàn lâm viện
quân sự.
Napoléon Bonaparte là một danh nhân đã làm thay đổi Lịch Sử
của nước Pháp và của Thế Giới.
Nguồn: Vietsciences.free.fr
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét