Dương Trường Phúc - Lê Hồng Hiệp
Nguồn: Nguyen Manh
Hung, “Shared concerns about China bring Vietnam and Japan closer”, East Asia
Forum, 02/06/2016.
Hình: Morishita Osamu, chỉ huy hai con tàu của Nhật cập cảng
Cam Ranh hồi tháng 4/2016, đọc phát biểu tại lễ đón tàu.
Hình: Morishita
Osamu, chỉ huy hai con tàu của Nhật cập cảng Cam Ranh hồi tháng 4/2016,
đọc phát biểu tại lễ đón tàu. Nguồn: Tuổi Trẻ. - See more at:
http://nghiencuuquocte.org/2016/06/21/quan-ngai-chung-ve-tq-day-viet-nhat-xich-lai-gan-nhau/#more-16652
Hình: Morishita
Osamu, chỉ huy hai con tàu của Nhật cập cảng Cam Ranh hồi tháng 4/2016,
đọc phát biểu tại lễ đón tàu. Nguồn: Tuổi Trẻ. - See more at:
http://nghiencuuquocte.org/2016/06/21/quan-ngai-chung-ve-tq-day-viet-nhat-xich-lai-gan-nhau/#more-16652
Sau ba tuần nhậm chức, vào ngày 22 tháng 04 năm 2016, Chủ tịch
nước Việt Nam Trần Đại Quang đã được dẫn lời nói rằng Nhật Bản là “một trong những
đối tác hợp tác quan trọng của Việt Nam”. Tầm quan trọng của quan hệ Việt-Nhật
đối với hai bên đã được tăng cường do sự thay đổi cấu trúc quyền lực ở châu Á.
Cơ sở cho sự hợp tác an ninh sâu rộng và ngày càng gia tăng
giữa Việt Nam và Nhật Bản chính là mối quan ngại chung về tham vọng bành trước
lãnh thổ của Trung Quốc. Sự áp đặt các yêu sách trên Biển Đông của Trung Quốc
đã thúc đẩy Việt Nam áp dụng chiến lược “cân bằng mềm” chống lại quốc gia này.
Chiến lược này dựa trên hai thành phần: một chính sách “ba không”, không căn cứ
nước ngoài, không liên minh quân sự, không dùng quan hệ với quốc gia này để chống
lại quốc gia khác – nhằm xoa dịu nỗi sợ bị bao vây của Trung Quốc; và phần còn
lại là những gì mà Hà Nội gọi là chính sách “đa dạng hóa và đa phương hóa các mối
quan hệ” nhằm cân bằng lại áp lực từ Trung Quốc.
Thậm chí trước khi những tranh chấp nổi lên trên Biển Đông
như hiện nay, Việt Nam đã xem Nhật Bản là một người bạn tốt nhất và mạnh nhất ở
châu Á. Là một đồng minh thân cận của Mỹ, Nhật Bản là mối liên kết với Phương
Tây quan trọng nhất của Việt Nam. Chính sách của Nhật Bản cũng mang tính hỗ trợ
đối với Việt Nam nhiều hơn so với các chính sách của Mỹ. Nhật Bản cũng là quốc
gia đầu tiên bình thường hóa quan hệ với Việt Nam sau khi Hiệp định Hòa bình
Paris năm 1973 được ký (trong khi đó, Mỹ
phải đến 22 năm sau mới thực hiện điều này). Nhật Bản cũng là quốc gia đầu tiên
trong nhóm các nước phương Tây nối lại viện trợ cho Việt Nam vào năm 1992, một
bước tiến quan trọng giúp chấm dứt tình trạng cô lập về ngoại giao và kinh tế
do việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
Nhật Bản đã ký một hiệp định thương mại và trao đổi quy chế
tối huệ quốc với Việt Nam vào năm 1991, bảy năm trước khi Quốc hội Mỹ làm như vậy.
Năm 2011, Nhật Bản đã chính thức thừa nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường,
trong khi Hoa Kỳ vẫn chưa thực hiện điều này. Kết quả là Nhật Bản trở thành đối
tác tài trợ lớn nhất cho Việt Nam thông qua hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),
nhà đầu tư lớn thứ hai sau Hàn Quốc, và là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba sau
Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Trong lĩnh vực nhạy cảm là hợp tác quốc phòng, Nhật Bản đồng
ý thành lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào năm 2006, trở thành quốc
gia thứ hai thực hiện điều này sau Nga, một đồng minh truyền thống của Việt
Nam. Sự hợp tác này được nâng lên thành “đối tác chiến lược sâu rộng” vào tháng
3 năm 2014.
Trong số các nước lớn thích hợp có thể đối trọng lại Trung
Quốc, Nga đã đứng về phía Trung Quốc trong việc phản đối quốc tế hóa tranh chấp
Biển Đông. Các vấn đề nhân quyền và sự nghi ngại kín đáo của Việt Nam về các ý
định và cam kết của Mỹ đã ngăn cản mối quan hệ với Mỹ phát triển đầy đủ tiềm
năng.
Điều này khiến Nhật Bản trở thành một lựa chọn thay thế hấp
dẫn có thể kết hợp cùng Hoa Kỳ đóng vai trò như một đối trọng với Trung Quốc.
Nhật Bản là một quốc gia châu Á, vì vậy Việt Nam không phải lo lắng về việc quốc
gia này rút khỏi khu vực. Do các tranh chấp hàng hải của Nhật Bản với Trung Quốc
ở Biển Hoa Đông, và tầm quan trọng của Biển Đông đối với thương mại và an ninh
của Nhật, nên quốc gia này có lợi ích quan trọng trong việc ngăn chặn Trung Quốc
kiểm soát Biển Đông. Nhật cũng đã có những bước đi nhằm tăng cường vai trò của
mình trong việc bảo vệ tự do hàng hải, duy trì sự can dự của Mỹ ở châu Á và
cung cấp hỗ trợ quốc phòng cho Philippines và Việt Nam.
Việc Trung Quốc đặt giàn khoan HYSY-981 trong khu vực đặc
quyền kinh tế của Việt Nam vào tháng 5 năm 2014 cũng như những nỗ lực sau đó của
Trung Quốc nhằm xây dựng và quân sự hóa các hòn đảo nhân tạo ở vùng biển tranh
chấp đã tạo ra một sự “xoay trục” nhẹ trong chính sách của Việt Nam hướng về
Phương Tây. Tìm kiếm các đối trọng lại Trung Quốc đã trở nên quan trọng hơn sự
lo sợ làm mếch lòng nước này. Chính bối cảnh này đã giúp hợp tác quốc phòng giữa
Việt Nam và Nhật Bản tăng tốc.
Một tháng sau sự cố giàn khoan dầu, trong tháng 6 năm 2014,
tàu đổ bộ Kunisaki của Nhật Bản đã cập cảng Tiên Sa như một phần của chương
trình Đối tác Thái Bình Dương do Hải quân Hoa Kỳ hậu thuẫn. Hai tháng sau đó,
vào tháng 8, Nhật Bản tuyên bố họ sẽ cung cấp cho Việt Nam sáu tàu tuần tra để
nâng cao năng lực an ninh hàng hải. Vào tháng 5 năm 2016 Nhật Bản cam kết sẽ
cung cấp thêm hai tàu nữa. Hai bên cũng đã nhất trí tổ chức các cuộc diễn tập hải
quân chung.
Dấu hiệu cụ thể nhất của quan hệ đối tác quốc phòng mới
chính là việc Nhật Bản được sử dụng nhiều hơn căn cứ hải quân chiến lược tại Vịnh
Cam Ranh của Việt Nam. Hai nước đã đồng ý cho phép tàu chiến Nhật Bản cập cảng ở
Cam Ranh để tiếp nhiên liệu và vật tư. Hai máy bay trinh sát P3C Orion và hai
tàu khu trục tên lửa dẫn đường của Nhật đã quá cảnh ở đó trong năm nay.
Sự hiện diện của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tại vịnh Cam
Ranh là tín hiệu cho cam kết rõ ràng của Nhật đối với Việt Nam trong tranh chấp
Biển Đông và báo trước một chương mới trong hợp tác quốc phòng song phương. Nói
rộng hơn, việc tăng cường hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Nhật Bản là minh
họa về cách các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đang thúc đẩy các quốc gia
Đông Nam Á tăng cường quan hệ với các đối tác mới trong khu vực như thế nào.
Nguyễn Mạnh Hùng là Giáo sư về Quản trị Chính quyền và Quan
hệ Quốc tế tại Đại học George Mason và Nghiên cứu viên cao cấp không thường trú
tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, Washington DC.
nghiencuuquocte.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét