Bùi Quang Vơm
“Thông điệp khẩn
cấp mà chúng ta muốn chuyển tới những kẻ đang nắm trong tay quyền
lực của chế độ tại Hà Nội, rằng đảo đã mất, sắp mất hết, biển
đang mất và đất nước sẽ mất chỉ do sự mê muội của ý thức hệ cộng
sản, mê muội bạn – thù. Hãy thức tỉnh, không còn thời gian nữa! Phía
sau các vị không còn dân nữa đâu, đừng ảo tưởng, không còn ai hết,
không một người! Không thể có mặt trận nhân dân, không thể có thế
trận toàn dân nữa…
Giặc Tàu đến, con cháu của những người
bị các vị, bị cái lý tưởng viển vông của các vị lừa bịp, ba mươi
năm làm bia đỡ đạn để các vị ngồi trên vinh quang, chia nhau quyền
lực, vơ vét làm giàu, bây giờ họ sẽ không bị lừa dối nữa. Nếu giặc
đến, các vị hãy mang những lâu đài, biệt thự giát vàng của các vị
ra mà đỡ đạ̣n”.
____
Bùi Quang Vơm
Toàn cảnh mặt chính diện đảo Trường Sa lớn nhìn từ phía cầu
cảng (Ảnh: VIỄN SỰ)
Toàn cảnh mặt chính đảo Trường Sa lớn nhìn từ phía cầu cảng.
Ảnh: Viễn Sự/ TT. Khi nào thì nó rơi vào tay Trung Quốc?
Báo Vnexpress.net đưa tin, “Mỹ hôm qua (22/06/2016), lên tiếng
cảnh báo Trung Quốc không nên ‘thực hiện thêm các hành động khiêu khích’, sau
khi tòa trọng tài thường trực ra phán quyết về vụ kiện ở Biển Đông. Colin
Willett, phó trợ lý ngoại trưởng Mỹ khu vực Đông Á, cho biết, Washington có “rất
nhiều cách” để đối phó với bất kỳ động thái nào của Trung Quốc trong khu vực,
theo Reuters. Bà nói thêm rằng trong bối cảnh tòa trọng tài thường trực (PCA) ở
The Hague sắp đưa ra phán quyết về vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc
liên quan đến đường 9 đoạn mà Bắc Kinh tự vẽ ra trên Biển Đông, Mỹ đang tích cực
làm việc với các đối tác và đồng minh khu vực nhằm đảm bảo thiết lập một mặt trận
thống nhất”.
Chú ý rằng, lời cảnh báo này nhấn mạnh chữ “thêm”,
có nghĩa là đã có khiêu khích.Và có thể thấy rằng vụ khiêu khích
vừa rồi của Trung Quốc, vụ bắn hạ hai máy bay của Việt Nam, đã không
che mắt được ai, nhưng công bố một quy kết lại không thể đơn giản là
“biết” hoặc “chắc chắn”, nhất là chính Hà Nội, người bị nạn lại
không muốn quy tội cho ai, và âm thầm nuốt hận, hay cắn răng chịu
trận. Và Mỹ thì “chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các
bạn”như lời Đại sứ Mỹ Ted Osius. (Những phân tích về âm mưu của Trung
Quốc, xin xem bài “Chiến tranh biển Đông đã bắt đầu?”).
Bắn hạ hai chiếc máy bay hiện đại của không quân
Việt Nam trong hai ngày 14/06 và 16/06, Trung Quốc đã thực hiện một âm
mưu khiêu khích.Việt Nam biết và có bằng chứng, Việt Nam có thể công
bố và quy kết trách nhiệm cho Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc bồi
thường, và theo tập quán ngọai giao, Hà Nội sẽ buộc phải có động
thái đáp trả hành vi khiêu khích này. Nhưng nếu công bố kết tội Trung
Quốc, Bắc Kinh sẽ lu loa lên rằng ‘Hà Nội vu khống và khiêu khích. Hà
Nội lợi dụng Mỹ để công khai chống lại Trung Quốc. Chế độ Hà Nội
đã phản bội lại láng giềng, phản bội chủ nghĩa Mác. Hà Nội đã
trở thành kẻ thù của nhân dân Trung Quốc, Hà nội phải bị trừng
phạt‘.
Tiếp đến, sẽ xảy ra các sự cố tàu thuyền đánh cá
của Trung Quốc “bị bắn”, ngư dân Trung Quốc trên biển thuộc lãnh hải
Việt Nam “bị đánh chìm”, tàu chiến tuần tra của Trung Quốc đột nhiên
“bốc cháy” gần đảo Trường Sa lớn của Việt Nam, có “bằng chứng tên lửa
của Việt Nam được phóng đi từ Trường Sa lớn”, v.v… Tất cả những cái
cớ bịa đặt đó mục đích dẫn đến việc Trường Sa lớn của Việt Nam
phải bị Trung Quốc trả đũa, và điều sẽ xảy ra là Trường Sa lớn,
thủ phủ huyện đảo Việt Nam còn lại trên biển Đông, sẽ bị tiêu diệt
và chiếm đọat chỉ trong một đêm, bằng hoả lực không gì cản được.
Bằng việc giả như phớt lờ gợi ý trợ giúp của Mỹ,
kêu gọi sự giúp đỡ của chính Trung Quốc, Hà Nội đã hoá giải âm mưu
gây chiến đó của Bắc Kinh. Bắc Kinh không thể từ chối một hành động
hỗ trợ nhân đạo, và buộc phải làm ngơ, như chưa hề có chuyện cố
tình gây chuyện. Đó là biến “mưu của địch làm mưu của ta”, là “tương
kế tựu kế”.
Âm mưu khiêu khích của Trung Quốc là tạo cớ gây
chiến, lợi dụng hỗn lọan để chiếm đọat tất cả những thực thể còn
lại trong quần đảo Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam,
trước khi Toà Trọng Tài PCA đưa ra phán quyết, thực hiện chiến thuật
“chuyện đã rồi”, nhằm tạo thế không thể đảo ngược và bằng cách này
hoàn thành mục tiêu độc chiếm biển Đông.
Nhưng ngay sau khi chiếc SU-30MK2 bị nạn rơi ngày
14/06/2016, Mỹ bằng một cách nào đó, có lẽ đã biết được. Ngày
15/06/2016, Mỹ đã cấp tốc điều 4 tầu chiến điện tử cùng với 120 nhân
sự kỹ thuật tới biển phía đông Philippines, có nhiệm vụ gây nhiễu
radar đối phương, và liền ngay sau đó, ngày 18/06/2016, cùng một lúc,
Mỹ đã điều hai tàu sân bay John C. Stennis và Ronald Reagan hoạt động cùng
nhau tại biển Philippines trong tình trạng sẵn sàng tác chiến.
Trong bài phát biểu hôm qua tại một diễn đàn kinh tế ở thành
phố Davao, ông Rodrigo Duterte gợi ý rằng “Hiệp định Tương trợ Quốc phòng năm
1951 của các đồng minh không tự động buộc Washington phải giúp Philippines ngay
tức thì, nếu nước này đối đầu với Trung Quốc do một xung đột về lãnh thổ.
Duterte nói ông đã hỏi Đại sứ Mỹ Philip Goldberg trong cuộc gặp gần đây. “Các vị
có sát cánh bên chúng tôi hay không?”, ông Duterte hỏi và ông Goldberg đáp: “Chỉ
khi các vị bị tấn công”.
Philippines cũng đã cảm thấy một điều gì khác
thường đang đến từ phía Trung Quốc?! Cũng như Việt Nam, họ tất nhiên
cũng có tình báo quân sự tại Trung Hoa đại lục.
Như vậy, có thể thấy, ngay cả Philippines, dù được gọi
là đồng minh lâu đời của Mỹ, nếu không có một Hiệp định an ninh chung
thay cho Hiệp định Tương trợ Quốc phòng, thì khi Philippines có xung đột
với Trung Quốc nhằm thu hồi lại Scarboroug, Mỹ vẫn không có quyền tự
động can thiệp, trong khi nếu đã thành “chuyện đã rồi” thì không thể
đảo ngược tình thế, nghĩa là không thể lấy lại, nếu không bằng một
cuộc chiến tranh có tuyên bố với kết thúc bằng sự đầu hàng vô điều
kiện của Trung Quốc.
Mỹ đã hoạt động hết sức tích cực. Với bốn tầu
chiến điện tử và hai tàu sân bay có mặt tại biển Đông, trong tình
trạng sẵn sàng, và với những công bố gần như nói thẳng bản chất
những hành vi có chủ đích của Trung Quốc, Mỹ góp phần quyết định
hoá giải một phần những thủ đọan không có gì ghê gớm nhưng hung bạo
của Bắc Kinh. Sự có mặt của Mỹ có thể khống chế sự hung hăng của
Trung Quốc, nhưng Mỹ không có quyền đương nhiên can thiệp những xung đột
song phương. Vì vậy, những thủ đọan gây sự cố châm ngòi cho việc sử
dụng vũ lực, đặc biệt, riêng với Việt Nam, liên quan tới Trường Sa
lớn, có thể vẫn xảy ra. Và trên nguyên tắc, Mỹ chỉ có thể đưa ra
thông điệp “luôn luôn có mặt bên cạnh và sẵn sàng giúp đỡ bằng mọi
cách, nhưng chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các bạn”. Nếu
chỉ có thế thì ngay cả khi chuyện xảy ra, đảo mất, biển mất, thậm
chí, không thấy Mỹ hành động, thì nước cũng có thể mất. Hà Nội
chỉ có thể ngồi nhìn và Mỹ không thể làm gì ngoài “cực lực phản
đối”.
Nhưng phải hỏi, ở phía Việt Nam, khi đã biết Trung
Quốc tập trận bắn đạn thật trên biển Đông từ ngày 13/06 tới ngày
17/06, tại sao lại cho tập luyện bay trên biển Đông vào ngày ngày
14/06? Việt Nam răn đe Trung Quốc, hay Việt Nam thông đồng với Trung Quốc
để tạo ra sự kiện? Ai đã ra lệnh xuất kích trong tình huống như vậy?
Tại sao khi tín hiệu SOS kêu cứu phát ra từ vùng biển Nghệ An, chỉ
cách bờ khoảng 20 km theo lời thuật của thiếu tá Nguyễn Huy Cường,
lại điều máy bay tuần thám CASA 212 tới đảo Bạch Long Vĩ, sát phía
đông đường phân giới vịnh bắc bộ với Trung Quốc để bị rơi? Và tại
sao phải cần một ê kíp tới 9 người? Người ra lệnh này là ai? Nhằm
mục đích gì? Có thể tin được rằng gián điệp của Trung Quốc nằm ngay
trong bộ tư lệnh phòng không, không quân, ngay trong bộ chỉ huy tìm kiếm
cứu nạn, và trong bộ tổng tham mưu? Trước mắt, có thể cách chức,
thậm chí bắt giam ngay, chờ điều tra người ra quyết định xuất kích
bay tập trong khi Trung Quốc đang diễn tập bắn đạn thật tại biển Đông.
Xử bắn công khai, nếu là gián điệp Trung Quốc. Nếu là một kế hoạch
được chuẩn bị trước, thì hãy hình dung, những kẻ phản bội này táng
tận lương tâm đến mức nào và thực tế chất lượng của quân đội Việt
Nam hiện nay ra sao.
***
Thông điệp khẩn cấp mà chúng ta muốn chuyển tới
những kẻ đang nắm trong tay quyền lực của chế độ tại Hà Nội, rằng
đảo đã mất, sắp mất hết, biển đang mất và đất nước sẽ mất chỉ do
sự mê muội của ý thức hệ cộng sản, mê muội bạn thù. Hãy thức
tỉnh, không còn thời gian nữa. Phía sau các vị không còn dân nữa đâu,
đừng ảo tưởng, không còn ai hết, không một người. Không thể có mặt
trận nhân dân, không thể có thế trận toàn dân nữa. Cái từng đem lại
cho các vị “chế độ”, đã chuyển sang phía bên kia chiến tuyến, đối
diện với chính các vị rồi. Họ đã từng nâng thuyền và bây giờ họ
sẽ là những người lật thuyền.
Giặc Tàu đến, con cháu của những người bị các vị,
bị cái lý tưởng viển vông của các vị lừa bịp, ba mươi năm làm bia đỡ
đạn để các vị ngồi trên vinh quang, chia nhau quyền lực, vơ vét làm
giàu, bây giờ họ sẽ không bị lừa dối nữa.
Nếu giặc đến, các vị hãy mang những lâu đài, biệt
thự giát vàng của các vị ra mà đỡ đạ̣n. Sau những việc cướp đọat
làm giàu trên xương máu người dân, các vị vẫn tin rằng người dân sẽ
bảo vệ các vị, để các vị tiếp tục có chức có quyền, tiếp tục
bòn rút xương tuỷ người lao động nghèo đói nữa hay sao?
Đành rằng không ai có quyền quy kết tất cả, trong
các vị vẫn có những con người chính trực. Chúng ta đang chờ những
con người đó hành động. Hãy tỉnh táo và suy ngẫm. Cái gì làm nên
sự đổ vỡ của lòng dân, cái gì, nguyên nhân nào làm ra sự suy sụp
nền đạo đức của một dân tộc giàu nhân bản, giàu lòng vị tha và yêu
công lý như dân tộc Việt Nam?
Các vị trông chờ vào cứu cánh của ý thức hệ cộng
sản, của chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhưng những tên đồ tể đại Hán ở
Trung Nam Hải không còn là những đồ đệ của Mác nữa, chúng chiếm
biển Việt Nam, đất Việt Nam không phải để bảo vệ “lý tưởng tương
đồng” với các vị, mà là để chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ.
Hãy tỉnh lại, chủ nghĩa Mác chết rồi, bản chất xã
hội loài người đã thay đổi, không còn man rợ như những gì in trên
nhận thức đơn sơ và chết cứng của Mác. Nếu lịch sử là một quá
trình tự hoàn thiện mình, thì hình ảnh gần nhất với mơ ước của
Mác chính là các xã hội phát triển nhất trên hành tinh, không phải
một Trung Quốc đang vật vã với những tư duy của những triều đại phong
kiến trung cổ, tham lam và mông muội.
Không có cái “thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” mà các vị suốt 35 năm tìm kiếm. Không biết các vị thật tâm
lần mò hay các vị cố tình tự lừa dối mình và lừa dối mọi người.
Nếu thật tâm các vị mò mẫm tìm kiếm cái quái thai không tồn tại
ấy, thì hãy xem lại cái phần não bộ, quả thật là có vấn đề thiếu
hụt. Thị trường là Tự do cá nhân cộng với sở hữu Tư nhân. Những gì
Việt Nam có hôm nay, những cái đã cứu cái chế độ của các vị thóat
chết, chính là những gì đến từ cái phần thị trường trong cái nền
kinh tế nửa dơi nửa chuột mà các vị chủ trương. Nó còn phôi thai,
nhưng sẽ chết dần bằng các chủ trương tập thể hóa và quốc hữu hoá
sở hữu, để tiến tới nền kinh tế phi sỡ hữu xã hội chủ nghĩa. Đó
là sản phẩm của một lối tư duy ấu trĩ về lý thuyết kinh tế và siêu
hình của lôgíc thực tiễn.
***
Đành rằng những thông điệp này xuất phát từ giả
thuyết hai máy bay của Việt Nam bị nạn do Trung Quốc cố tình bắn hạ,
nhằm âm mưu tạo sự kiện để gây chiến, nhưng bất kể sự kiện đã xảy
ra như thế nào và nguyên do từ đâu, thì nguy cơ biển đảo Việt Nam mất
vào tay Trung Quốc vẫn là nguy cơ có thật, chỉ là chuyện mất lúc
nào và mất như thế nào. Việc căn bản là xác định ai là thù và ai
là bạn. Một điều không người Việt Nam nào không biết, rằng kẻ thù
trực tiếp và truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là vua chúa các triều
đại Trung Hoa và những kẻ cầm quyền hiện nay tại Bắc Kinh. Nguy cơ
mất biển, mất đảo, dần tới mất nước là tư tưởng bá quyền thâm căn,
không thể thay đổi của chủ nghĩa bành trướng đại Hán Trung Quốc. Đó
là kẻ thù. Hợp tác với kẻ thù là tạo điều kiện cho kẻ thù thực
hiện dã tâm từ trong nhà, lợi dụng hợp tác để thiết chặt các trói
buộc lệ thuộc, để đoạt quyền kiểm soát trong tình huống xảy ra xung
đột, để kiến trúc dần những điều kiện chiếm đọat cuối cùng.
Cần phải quy thành tội tất cả những hành vi hợp
tác với kẻ thù thư tội gián điệp, tội phản quốc. Khi đã xác định Trung
Quốc cộng sản là kẻ thù, thì tất cả những kẻ thực hành các hoạt
động hợp tác với Trung Quốc cộng sản đều là tội phản quốc. Thực
chất, tình trạng Việt Nam bị lệ thuộc Trung Quốc cả về tư tưởng lẫn
kinh tế như hiện nay, nhất là tình trạng chiếm cứ các khu vực có
địa thế hiểm yếu, tạo thành thế xen cài răng lược, là sản phẩm của
hợp tác với Trung Quốc, sản phẩm của sự mê muội ý thức hệ và lòng
tham hèn hạ trong hàng ngũ những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt
Nam.
Không cần biết người ta định nghĩa diễn biến hoà
bình là gì, nhưng những kẻ lẫn lộn giữa man rợ và văn minh nhân
loại, giữa nô lệ và tự do nhân bản, giữa lòng bao dung và hận thù,
phải bị coi đầu tiên là kẻ thù của mọi diễn biến. Đến với tiến bộ,
đến với nền văn minh chung, hoà nhập vào hệ thống giá trị chung của
nhân lọai phải là một diễn biến mong đợi. Nếu diễn biến đó xảy ra
một cách hoà bình thì là một quá trình diễn biến hợp lòng người,
hợp thời đại. Các vị chẳng nên lo sợ. Chỉ có những người bạn mới
tìm cách đến với các vị một cách hoà bình, kiên nhẫn chờ đợi sự
chuyển biến chậm trễ của các vị. Ngược lại, hãy nhìn những gì Trung
Quốc làm, đó không phải là diễn biến hoà bình, đó là một diễn
biến cũng đến từ từ nhưng man rợ, biến các vị và đồng bào của các
vị ban đầu thành những tên nô lệ, rồi sau đó mất hẳn khỏi loài
người.
Cần phải có ngay lập tức một Hiệp định an ninh tương
hỗ cho phép Mỹ quyền đương nhiên và tức khắc can thiệp, mỗi khi Việt
Nam có xung đột vũ trang đe dọa an ninh biển đảo và chủ quyền quốc
gia. Không còn thời gian nữa. Nguy cơ tổn thất tài sản và hy sinh con
người trên các đảo và đá có quân đội túc trực và dân cư sinh sống
thuộc quần đảo Trường Sa, đặc biệt là Trường Sa lớn, thủ phủ của
huyện đảo Trường Sa đang hiện rõ từng ngày, có khả năng xảy ra trước
ngày phán quyết của Toà trọng tài PCA ngày 07/07/2016.
Không cho phép bất kỳ ai chần chừ. Trách nhiệm về
chủ quyền quốc gia và sinh mạng những con người này trước hết và
trên hết thuộc về những cá nhân trong Thường vụ Quân uỷ Trung ương, bao
gồm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ
tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch,
Tổng cục trưởng Tổng cục chính trị Lương Cường, Tổng tham mưu trưởng
Phan Văn Giang và Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.
Không có gì có thể cứu vãn được tình thế hiểm nguy của
đất nước trong lúc này, ngoài một Hiệp định với Mỹ, kể cả một Hiệp
định không công bố.
Paris ngày 23/06/2016
Bùi Quang Vơm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét