Nguyễn Hưng Quốc
Lâu nay, nói đến chuyện hoà giải, chúng ta chỉ hay giới hạn
trong quan hệ giữa người Việt với nhau, chủ yếu là giữa người Việt ở miền Nam
và người Việt ở miền Bắc, sau đó, giữa chính quyền Việt Nam và cộng đồng người
Việt ở hải ngoại. Trên thực tế, nội hàm khái niệm hoà giải rất rộng, không chỉ ở
phạm vi quốc gia mà còn ở tầm quốc tế, ở đó, sự hoà giải giữa người Việt và người
Mỹ là then chốt.
Trước hết, cần nhắc lại một số điểm: Một, mối đe doạ nghiêm
trọng nhất đối với độc lập và chủ quyền của Việt Nam hiện nay đến từ những tham
vọng bành trướng lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Hai, đối diện với sự đe
doạ ấy, Việt Nam chỉ có một cách duy nhất để tự vệ là tìm kiếm sự hỗ trợ của quốc
tế, trong đó, quan trọng nhất là Mỹ. Ba, trong quan hệ với Mỹ, điều trở ngại lớn
nhất chính là quá khứ, là cuộc chiến tranh kéo dài giữa hai nước trước đây. Bởi
vậy, có thể nói, công việc cần làm đầu tiên của hai nước là nỗ lực hoà giải.
Sự hoà giải ấy cực kỳ quan trọng bởi vì di sản của cuộc chiến
tranh Việt Nam rất nặng nề.
Về phía Mỹ, đó là cuộc chiến tranh ở nước ngoài dài thứ hai
của họ (sau cuộc chiến tranh tại Afghanistan hiện nay); đó cũng là một cuộc chiến
tranh chia rẽ nước Mỹ một cách sâu sắc nhất. Ngoài 58.000 lính Mỹ bị hy sinh,
những chấn thương tâm lý ở những người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam vẫn
còn kéo dài rất lâu. Nhiều người vượt qua các chấn thương ấy để hoà giải với Việt
Nam, nhưng cũng không ít người vẫn tiếp tục nhìn Việt Nam bằng cặp mắt đầy hận
thù và nghi kỵ: chính những người đó là lực lượng chống đối mạnh mẽ nhất đối với
mọi nỗ lực hoà giải của chính quyền Mỹ.
Về phía Việt Nam, cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm, từ 1954 đến
1975, cũng là một trong những cuộc chiến tàn khốc nhất với trên ba triệu người,
kể cả thường dân ở hai miền Nam và Bắc, bị thiệt mạng. Số lượng bom và các loại
chất nổ thả xuống Việt Nam trong hai mươi năm ấy còn nhiều hơn tổng số bom mìn
được sử dụng trên khắp thế giới trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cho đến
tận ngày nay, hơn 40 năm sau chiến tranh, những bom mìn ấy vẫn còn là một nguy
cơ. Đó là chưa kể các loại hoá chất độc hại, trong đó, đáng kể nhất là chất độc
màu da cam, đến nay vẫn ảnh hưởng đến nhiều người.
Di sản nặng nề đến vậy nhưng hầu như bất cứ người sáng suốt
và có tầm nhìn chiến lược nào cũng đều thấy rõ một điều: mọi người, từ cả hai
phía, đều cần vượt qua quá khứ để cùng hợp tác với nhau nhằm đối phó với những
thử thách nghiêm trọng trong hiện tại, trong đó, thử thách lớn nhất là những âm
mưu bành trướng của Trung Quốc. Với Mỹ, cũng giống như thời chiến tranh lạnh, Việt
Nam lại nằm ở tuyến đầu trong chiến lược chống lại sự bành trướng ấy. Với Việt
Nam, âm mưu bành trướng ấy trực tiếp đe doạ đến chủ quyền của Việt Nam trên biển
và đảo, thậm chí, có thể cả trên đất liền.
Ý thức được điều đó, lâu nay Mỹ cố gắng bày tỏ nỗ lực hoà giải
với Việt Nam. Cả ba tổng thống Mỹ, từ Bill Clinton đến Georges W. Bush và
Barack Obama, khi đến Việt Nam, đều nhấn mạnh đến nhu cầu hoà giải để một mặt,
gác bỏ những hận thù trong quá khứ; mặt khác, hướng tới tương lai với những sự
hợp tác để cả hai bên cùng có lợi. Nói cách khác, Mỹ là những người chìa tay ra
trước. Khi chìa tay ra như vậy, họ chấp nhận cả sự nhượng bộ. Có hai sự nhượng
bộ lớn: Một là công khai nhìn nhận tính hợp pháp và chính đáng trong vị thế
lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản Việt Nam, và hai là nhiều lúc nhắm mắt làm
ngơ trước những hành động vi phạm nhân quyền một cách trắng trợn của chính quyền
Việt Nam. Biểu hiện chính của sự nhượng bộ thứ nhất không những chỉ qua các lời
tuyên bố tôn trọng thể chế chính trị của nhau mà còn qua việc chính thức tiếp
đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Nhà Trắng vào giữa năm 2015. Biểu hiện của
sự nhượng bộ thứ hai là Mỹ quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối
với Việt Nam ngay cả khi vấn đề nhân quyền chưa được cải thiện dù, trên nguyên
tắc, nó vốn được xem là một trong những yêu sách đầu tiên của Mỹ.
Còn phía Việt Nam thì sao? Nhớ, năm 2000, sau khi Tổng thống
Bill Clinton phát biểu với nội dung kêu gọi mọi người cố quên quá khứ thù nghịch
giữa hai nước để cùng nhau hướng về tương lai, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu phản đối
ngay: Theo ông, người Việt Nam không thể và cũng không nên quên cuộc chiến
tranh bảo vệ tổ quốc đầy chính nghĩa của mình. Bill Clinton ngơ ngác. Giới bình
luận chính trị quốc tế, sau đó, cho bài đáp từ của Lê Khả Phiêu là một sự vụng
về, phá hỏng không khí hoà giải mà Bill Clinton muốn mang lại. Trong cuốn Bên
Thắng Cuộc, Huy Đức kể lại lời của Phan Văn Khải, nguyên Thủ tướng, lúc chuẩn bị
đón tiếp Tổng thống Bill Clinton năm ấy, đại khái: Bộ Chính trị ra chỉ thị là,
khi gặp Bill Clinton, ông không được cười! Trong cuộc đón tiếp Tổng thống
Barrack Obama vừa rồi, không biết Bộ Chính trị có ra chỉ thị gì không nhưng mặt
mày của giới lãnh đạo Việt Nam trông rất thiếu thân thiện. Có vẻ như Việt Nam
còn khá miễn cưỡng trong tiến trình hoà giải với Mỹ.
Sự khác biệt trong vấn đề hoà giải thể hiện rõ nhất qua thái
độ của nhiều người Việt Nam đối với việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm Chủ tịch
Hội đồng Quản trị của đại học quốc tế Fulbright Việt Nam. Về phía Mỹ, người ta
xem vai trò của Kerrey, một cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam, như một
bằng chứng của hoà giải. Phía Việt Nam, ít nhất là đối với một số thành phần
nào đó, ngược lại, người ta từ chối cử chỉ hoà giải ấy với lý do bàn tay của
Kerrey đã từng dính máu trong cuộc chiến tại Việt Nam. Điều đáng nói là cái gọi
là thành phần từ chối ấy dường như không phải nhỏ. Một cách công khai, chỉ có một
mình bà Tôn Nữ Thị Ninh lên tiếng. Tuy nhiên, việc bài phỏng vấn ông Đinh La
Thăng, trong đó, ông ủng hộ việc Bob Kerrey, bị gỡ ra khỏi các báo, cho thấy thế
lực từ chối hoà giải tại Việt Nam rất lớn, ít nhất cũng lớn hơn ông Đinh La
Thăng, một uỷ viên Bộ Chính trị và là Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh.
Tại sao chính quyền Việt Nam có vẻ miễn cưỡng trong tiến
trình hoà giải với Mỹ như vậy?
Thực tình, tôi không hiểu.
Nguồn: voatiengviet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét