Trần Thị Ngọc Thúy - Phạm Trang Nhung
Nguồn: Masahiro Matsumura, “From San Francisco to the South
China Sea”, Project Syndicate, 08/03/2013
Hình: Lãnh đạo các nước ký Hiệp ước San Francisco. Nguồn:
Telegraph.
Những tranh chấp biển và lãnh thổ giữa Trung Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á đang tạo ra nhiều bất ổn trong khu vực Biển Đông; với rất ít triển vọng rằng các vấn đề này sẽ được giải quyết trong thời gian sắp tới. Tuy nhiên, nguyên trạng dù khó khăn hiện nay sẽ vẫn có thể được duy trì miễn là các bên tranh chấp thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin thông qua các diễn đàn đa phương, đồng thời tiếp tục kiên trì những chính sách răn đe đối với Trung Quốc và cam kết không sử dụng vũ lực.
Dễ hiểu là Trung Quốc rất muốn loại bỏ sự can thiệp vào
tranh chấp bởi các cường quốc ngoài khu vực, đặc biệt là Mỹ, và nước này thích
đàm phán song phương với những bên tuyên bố chủ quyền yếu thế hơn trong khu vực
vốn dễ bị áp đảo. Nhưng các cường quốc ngoài khu vực lại viện dẫn Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật biển, đặc biệt là điều khoản về tự do hàng hải và quyền qua lại
vô hại, để biện luận cho việc can dự vào tranh chấp ở Biển Đông.
Do những tranh cãi về Biển Đông xuất phát từ những yêu sách
đối với các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn, chứ không phải vùng biển cả, nên
việc áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc (nhằm biện minh cho sự can thiệp) là không
hoàn toàn phù hợp. Nhưng một thỏa thuận quốc tế khác có thể đưa ra vài gợi ý
cho việc giải quyết các tranh chấp này, đó là Hiệp ước Hòa bình San Francisco,
bắt đầu có hiệu lực vào năm 1952. Đây cũng là Hiệp ước chính thức đánh dấu sự kết
thúc của Thế chiến II ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Theo Hiệp ước, Nhật Bản từ bỏ những tuyên bố chủ quyền của
mình đối với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và Hoàng Sa (Paracel
Islands), nhưng không nhượng lại hai quần đảo này cho bất cứ nước nào. Hậu quả
là chúng nằm dưới sự giám hộ tập thể của 48 bên khác trong Hiệp ước, bao gồm cả
Việt Nam và Phillipines – 2 quốc gia có tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo
này.
Trung Quốc – vào thời điểm đó đang ở năm thứ 3 trong thời kỳ
lãnh đạo của Mao Trạch Đông – thậm chí còn không được mời tham gia Hội nghị Hòa
bình. Mặc dù Đảng Cộng sản của Mao rõ ràng đã giành chiến thắng trong cuộc nội
chiến và duy trì được sự kiểm soát đối với Trung Hoa đại lục, những người chủ
trì hội nghị vẫn không thể thống nhất trong việc xác định ai mới là chính quyền
đại diện cho Trung Quốc – Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) của Mao ở Bắc Kinh
hay Trung Hoa Dân quốc (ROC) của Tưởng Giới Thạch ở Đài Bắc. Vì lẽ đó, Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa phủ nhận việc Trung Quốc bị ràng buộc bởi Hiệp ước San
Francisco.
Song, Hiệp ước này lại có tính chất ràng buộc gián tiếp đối
với Trung Quốc thông qua Hòa ước song phương giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân quốc
được ký chỉ vài giờ trước khi Hiệp ước San Francisco có hiệu lực. Hòa ước này
đã tái khẳng định các điều khoản của Hiệp ước Hòa bình San Francisco – đặc biệt
là việc Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với Đài Loan. Trên thực tế, Hiệp ước San
Francisco yêu cầu Hòa ước song phương giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân quốc phải
có nội dung nhất quán với nó. Vì vậy, trong Hòa ước này, Nhật Bản không thể
trao cho bất cứ quốc gia nào khác ngoài các bên tham gia Hiệp ước San Francisco
những quyền và danh nghĩa bổ sung. Bởi lẽ đó, Nhật Bản không thể công nhận Đài
Loan là một phần lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Một điều chắc chắn là Hiệp ước San Francisco tự nó không có
ràng buộc về mặt pháp lý đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với Nhật Bản, Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa rõ ràng là bên kế thừa chủ quyền của Trung Hoa Dân quốc
tại Đài Loan; điều này được thể hiện trong Thông cáo chung giữa Nhật Bản và Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1972. Đây cũng chính là nền tảng của Hiệp ước Hòa
bình và Hữu nghị song phương được ký kết 6 năm sau đó. Khi Nhật Bản chuyển sự
công nhận ngoại giao từ Trung Hoa Dân quốc sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, họ
thừa nhận rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “chính quyền hợp pháp duy nhất của
Trung Quốc”. Căn cứ vào việc Nhật Bản không công nhận Trung Quốc như một quốc
gia mới – mà sự công nhận quốc tế đối với nhà nước Trung Quốc đã tồn tại không
gián đoạn từ khi chính quyền Trung Hoa Dân quốc ra đời vào năm 1912 – nên Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa đã chấp nhận các quyền và nghĩa vụ của chính quyền tiền
nhiệm.
Hơn nữa, Nhật Bản không công nhận Đài Loan như là một phần của
Trung Quốc vì điều đó sẽ vi phạm cam kết của Nhật Bản trong Hiệp ước San
Francisco. Trong khi Nhật Bản hoàn toàn “hiểu” và “tôn trọng” tuyên bố của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa rằng Đài Loan là một phần lãnh thổ bất khả xâm phạm của
Trung Quốc, họ lại không công nhận rằng tuyên bố này phù hợp với luật pháp quốc
tế. Hai quốc gia đơn giản đồng ý rằng họ bất đồng quan điểm trong vấn đề tư
cách pháp lý của Đài Loan. Nói cách khác, Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với Đài
Loan nhưng không trao chủ quyền này cho bất cứ một quốc gia nào khác.
Cho đến nay, Trung Quốc vẫn giữ im lặng trước những ảnh hưởng
của Hiệp ước San Francisco đối với yêu sách của họ ở Biển Đông. Điều này đơn
thuần phản ánh sự thiếu thốn trầm trọng chuyên gia về luật pháp quốc tế trong
lĩnh vực này của Trung Quốc; hoặc tình trạng phân mảnh và phiến diện của cộng đồng
hoạch định chính sách nước này. Nhưng sự im lặng này cũng có thể xuất phát từ
lo ngại rằng việc sử dụng những lý lẽ trong Hiệp ước – thứ mâu thuẫn với quan
điểm của Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan – để giải quyết những tranh chấp lãnh
thổ hiện nay có thể làm giảm uy tín và làm suy yếu lập trường của Trung Quốc.
Nếu không bị kiềm chế, Trung Quốc có thể sử dụng các tranh
chấp ở Biển Đông để thiết lập bá quyền đối với các quốc gia yếu hơn ở khu vực
này. Tất cả các bên tranh chấp, bao gồm cả Trung Quốc, đều có thể viện dẫn những
liên kết về mặt địa lý và lịch sử đối với các quần đảo này để bảo vệ luận điểm
của mình, nhưng không bên nào trong đó có danh nghĩa pháp lý vững chắc theo Hiệp
ước San Francisco.
Mỹ và các cường quốc ngoài khu vực có thể tận dụng điểm này
bằng cách viện dẫn quyền giám hộ tập thể ngầm của họ đối với Trường Sa và Hoàng
Sa theo Hiệp ước San Francisco. Thông qua đó, họ có thể quốc tế hóa quá trình
đàm phán song phương riêng rẽ giữa Trung Quốc và các nước yêu sách khác trong
khu vực. Các bên tham gia Hiệp ước thậm chí còn có thể tổ chức một hội nghị để
bàn về vấn đề này. Dựa vào thực tế rằng hội nghị này sẽ không có sự tham gia của
Trung Quốc, chỉ một cuộc hội nghị như vậy thôi cũng có thể xoay chuyển hoàn
toàn cục diện.
Masahiro Matsumura là Giáo sư chuyên ngành Chính trị quốc tế
tại Đại học St. Andrew’s (Momoyama Gakuin Daigaku), Osaka.
Hiệp ước San Francisco và tranh chấp Biển Đông
Nguồn: Masahiro Matsumura, “From San Francisco to the South China Sea”, Project Syndicate, 08/03/2013
Biên dịch: Trần Thị Ngọc Thúy | Hiệu đính: Phạm Trang Nhung
Những tranh chấp biển và lãnh thổ giữa Trung Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á đang tạo ra nhiều bất ổn trong khu vực Biển Đông; với rất ít triển vọng rằng các vấn đề này sẽ được giải quyết trong thời gian sắp tới. Tuy nhiên, nguyên trạng dù khó khăn hiện nay sẽ vẫn có thể được duy trì miễn là các bên tranh chấp thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin thông qua các diễn đàn đa phương, đồng thời tiếp tục kiên trì những chính sách răn đe đối với Trung Quốc và cam kết không sử dụng vũ lực.
Dễ hiểu là Trung Quốc rất muốn loại bỏ sự can thiệp vào tranh chấp bởi các cường quốc ngoài khu vực, đặc biệt là Mỹ, và nước này thích đàm phán song phương với những bên tuyên bố chủ quyền yếu thế hơn trong khu vực vốn dễ bị áp đảo. Nhưng các cường quốc ngoài khu vực lại viện dẫn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển, đặc biệt là điều khoản về tự do hàng hải và quyền qua lại vô hại, để biện luận cho việc can dự vào tranh chấp ở Biển Đông.
Do những tranh cãi về Biển Đông xuất phát từ những yêu sách đối với các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn, chứ không phải vùng biển cả, nên việc áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc (nhằm biện minh cho sự can thiệp) là không hoàn toàn phù hợp. Nhưng một thỏa thuận quốc tế khác có thể đưa ra vài gợi ý cho việc giải quyết các tranh chấp này, đó là Hiệp ước Hòa bình San Francisco, bắt đầu có hiệu lực vào năm 1952. Đây cũng là Hiệp ước chính thức đánh dấu sự kết thúc của Thế chiến II ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Theo Hiệp ước, Nhật Bản từ bỏ những tuyên bố chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và Hoàng Sa (Paracel Islands), nhưng không nhượng lại hai quần đảo này cho bất cứ nước nào. Hậu quả là chúng nằm dưới sự giám hộ tập thể của 48 bên khác trong Hiệp ước, bao gồm cả Việt Nam và Phillipines – 2 quốc gia có tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này.
Trung Quốc – vào thời điểm đó đang ở năm thứ 3 trong thời kỳ lãnh đạo của Mao Trạch Đông – thậm chí còn không được mời tham gia Hội nghị Hòa bình. Mặc dù Đảng Cộng sản của Mao rõ ràng đã giành chiến thắng trong cuộc nội chiến và duy trì được sự kiểm soát đối với Trung Hoa đại lục, những người chủ trì hội nghị vẫn không thể thống nhất trong việc xác định ai mới là chính quyền đại diện cho Trung Quốc – Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) của Mao ở Bắc Kinh hay Trung Hoa Dân quốc (ROC) của Tưởng Giới Thạch ở Đài Bắc. Vì lẽ đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phủ nhận việc Trung Quốc bị ràng buộc bởi Hiệp ước San Francisco.
Song, Hiệp ước này lại có tính chất ràng buộc gián tiếp đối với Trung Quốc thông qua Hòa ước song phương giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân quốc được ký chỉ vài giờ trước khi Hiệp ước San Francisco có hiệu lực. Hòa ước này đã tái khẳng định các điều khoản của Hiệp ước Hòa bình San Francisco – đặc biệt là việc Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với Đài Loan. Trên thực tế, Hiệp ước San Francisco yêu cầu Hòa ước song phương giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân quốc phải có nội dung nhất quán với nó. Vì vậy, trong Hòa ước này, Nhật Bản không thể trao cho bất cứ quốc gia nào khác ngoài các bên tham gia Hiệp ước San Francisco những quyền và danh nghĩa bổ sung. Bởi lẽ đó, Nhật Bản không thể công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Một điều chắc chắn là Hiệp ước San Francisco tự nó không có ràng buộc về mặt pháp lý đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với Nhật Bản, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rõ ràng là bên kế thừa chủ quyền của Trung Hoa Dân quốc tại Đài Loan; điều này được thể hiện trong Thông cáo chung giữa Nhật Bản và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1972. Đây cũng chính là nền tảng của Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị song phương được ký kết 6 năm sau đó. Khi Nhật Bản chuyển sự công nhận ngoại giao từ Trung Hoa Dân quốc sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, họ thừa nhận rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “chính quyền hợp pháp duy nhất của Trung Quốc”. Căn cứ vào việc Nhật Bản không công nhận Trung Quốc như một quốc gia mới – mà sự công nhận quốc tế đối với nhà nước Trung Quốc đã tồn tại không gián đoạn từ khi chính quyền Trung Hoa Dân quốc ra đời vào năm 1912 – nên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chấp nhận các quyền và nghĩa vụ của chính quyền tiền nhiệm.
Hơn nữa, Nhật Bản không công nhận Đài Loan như là một phần của Trung Quốc vì điều đó sẽ vi phạm cam kết của Nhật Bản trong Hiệp ước San Francisco. Trong khi Nhật Bản hoàn toàn “hiểu” và “tôn trọng” tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rằng Đài Loan là một phần lãnh thổ bất khả xâm phạm của Trung Quốc, họ lại không công nhận rằng tuyên bố này phù hợp với luật pháp quốc tế. Hai quốc gia đơn giản đồng ý rằng họ bất đồng quan điểm trong vấn đề tư cách pháp lý của Đài Loan. Nói cách khác, Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với Đài Loan nhưng không trao chủ quyền này cho bất cứ một quốc gia nào khác.
Cho đến nay, Trung Quốc vẫn giữ im lặng trước những ảnh hưởng của Hiệp ước San Francisco đối với yêu sách của họ ở Biển Đông. Điều này đơn thuần phản ánh sự thiếu thốn trầm trọng chuyên gia về luật pháp quốc tế trong lĩnh vực này của Trung Quốc; hoặc tình trạng phân mảnh và phiến diện của cộng đồng hoạch định chính sách nước này. Nhưng sự im lặng này cũng có thể xuất phát từ lo ngại rằng việc sử dụng những lý lẽ trong Hiệp ước – thứ mâu thuẫn với quan điểm của Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan – để giải quyết những tranh chấp lãnh thổ hiện nay có thể làm giảm uy tín và làm suy yếu lập trường của Trung Quốc.
Nếu không bị kiềm chế, Trung Quốc có thể sử dụng các tranh chấp ở Biển Đông để thiết lập bá quyền đối với các quốc gia yếu hơn ở khu vực này. Tất cả các bên tranh chấp, bao gồm cả Trung Quốc, đều có thể viện dẫn những liên kết về mặt địa lý và lịch sử đối với các quần đảo này để bảo vệ luận điểm của mình, nhưng không bên nào trong đó có danh nghĩa pháp lý vững chắc theo Hiệp ước San Francisco.
Mỹ và các cường quốc ngoài khu vực có thể tận dụng điểm này bằng cách viện dẫn quyền giám hộ tập thể ngầm của họ đối với Trường Sa và Hoàng Sa theo Hiệp ước San Francisco. Thông qua đó, họ có thể quốc tế hóa quá trình đàm phán song phương riêng rẽ giữa Trung Quốc và các nước yêu sách khác trong khu vực. Các bên tham gia Hiệp ước thậm chí còn có thể tổ chức một hội nghị để bàn về vấn đề này. Dựa vào thực tế rằng hội nghị này sẽ không có sự tham gia của Trung Quốc, chỉ một cuộc hội nghị như vậy thôi cũng có thể xoay chuyển hoàn toàn cục diện.
Masahiro Matsumura là Giáo sư chuyên ngành Chính trị quốc tế tại Đại học St. Andrew’s (Momoyama Gakuin Daigaku), Osaka.
Hình: Lãnh đạo các nước ký Hiệp ước San Francisco. Nguồn: Telegraph.
Copyright: Project Syndicate 2013 – From San Francisco to the South China Sea
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét