Biệt kích Trung Quốc
'sẵn sàng chiến đấu' trong sứ vụ của chiến hạm tại vùng biển Đông Phi - Hình ảnh VCG
Sau những diễn biến sôi nổi trong
năm 2015, sự căng thẳng ở Biển Đông có vẻ giảm đi từ 2016 đến nay. Trung Quốc có vẻ bớt những hành động
khiêu khích mới cũng như không xây thêm đảo nhân tạo.
Tình hình bắt đầu yên ổn lại và
Trung Quốc sẽ từ bỏ tham vọng làm chủ Biển Đông sau khi thất bại tại Tòa án Quốc
tế về luật biển của Liên Hiệp Quốc chăng? Có lẽ là không. Mục tiêu chiến lược
của Trung Quốc vẫn không thay đổi. Đó là nắm quyền kiểm soát trên vùng biển
trong phạm vi của cái mà Trung Quốc gọi là chuổi đảo thứ nhất từ Nhật Bản qua
Đài Loan đến tận Mã Lai.
Vùng biển này không những là nguồn
kinh tế quan trọng cho Trung Quốc, kiểm soát vùng biển đó sẽ giúp nước này tạo
ưu thế đối với Nhật Bản và Đại Hàn, và nhất là tăng áp lực lên Đài Loan.
Biện pháp hổ trợ cho mục tiêu này
là tăng cường lực lượng hải quân để có thể đối đầu với hải quân Hoa Kỳ ở miền
Tây Thái Bình Dương và để đủ khả năng thống nhất với Đài Loan bằng vũ lực, nếu
cần thiết.
Kiểm soát vùng Biển Đông cũng là
điều kiện căn bản cho quân đội Trung Quốc để triển khai áp lực quân sự vào Ấn Độ
Dương trong tương lai.
Vì thế nên Trung Quốc vẫn tiếp tục
quân sự hóa các đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa. Các công trình đã bắt đầu trên
các đảo đã được mở rộng. Đầu năm 2016, trên sáu đảo nhân tạo tại quần đảo Trường
Sa những cơ sở mang tính cách quân sự đã hình thành rỏ rệt.
Trên hai đảo được mở rộng là Đá
Vành Khăn (Mischief Reef) và Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) đã có hai phi đạo
dài khoảng 3 km, đủ để máy bay chiến đấu sử dụng, và theo tin tức thì máy bay
chiến đấu của không quân Trung Quốc cũng đã đáp thử ở đây rồi.
Đồng thời vào tháng Hai 2016
Trung Quốc đã bắt đầu gắn hệ thống hỏa tiễn phòng không tầm xa HQ-9 trên đảo
Phú Lâm (Woody Island) tại quần đảo Hoàng Sa. Nơi này cũng có một phi đạo. Cũng
theo giới tình báo quân sự Tây Phương thì các chiến đấu cơ tối tân loại J-11 đã
được đóng dài hạn trên đảo này.
Song song với việc xây cất trên
các đảo, sự tăng cường sức lực quân sự của Trung Quốc vẫn tiếp tục với một vận
tốc đáng ngại.
Tháng Tư năm nay giới lãnh đạo
Trung Quốc đã hãnh diện ra mắt thế giới chiếc hàng không mẫu hạm thứ hai của hải
quân nước này. Chiếc tàu thuộc hạng Type 001A với tên Sơn Đông là chiếc mẫu hạng
đầu tiên do Trung Quốc hoàn toàn tự đóng.
Giống như chiếc Liêu Ninh, mẫu hạm
đầu tiên của Trung Quốc đã được đóng trên cái sườn cũ của chiếc mẫu hạm Varyag
của Nga, chiếc Sơn Đông hoạt động trên nguyên tắc STOBAR (Short Take-Off But
Arrested Recovery), tức là các máy bay cất cánh trên một bàn nhảy và khi đáp lại
trên tàu thì dùng dây móc để thắng lại.
Đây là phương pháp hoạt động khác
các siêu hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ và Pháp. Thuyền sân bay của các quốc gia
này thuộc vào loại CATOBAR (Catapult Take-Off But Arrested Recovery). Các máy
bay được bắn đi bằng một hệ thống phóng khi cất cánh và khi đáp thì dùng dây
móc.
Ưu điểm của hệ thống CATOBAR là
các chiến đấu cơ có thể cất cánh với một trọng tải cao hơn, do đó có thể mang
nhiều nguyên liệu cũng như vũ khí hơn là khi cất cánh từ một mẫu hạm STOBAR.
Chiếc mẫu hạm mới của Trung Quốc
chưa đủ khả năng để đối đầu với các siêu mẫu hạm của Hoa Kỳ.
Nhưng với nó Trung Quốc đã vượt mặt
nước Nga với chiếc Admiral Kuznetzov cũ kỷ và hay hư hỏng.
Chiếc Sơn Đông cũng chỉ là một bước
nữa trên hành trình để hải quân Trung Quốc gia nhập câu lạc bộ của các cường quốc
có siêu mẫu hạm. Cùng lúc khi chiếc Sơn Đông được ra mắt thiên hạ, hải quân
Trung Quốc cũng tuyên bố là đã bắt đầu việc thiết kế một chiếc mẫu hạm thứ ba với
số hạng là 002.
Chiếc mẫu hạm này chắc sẽ giống
các hàng không mẫu hạm của các cường quốc Tây phương nhiều hơn.
Nỗ lực của Trung Quốc trên lãnh vực
thiết kế tàu sân bay là tiêu biểu cho sự cố gắng của quốc gia này để tạo ra một
lực lượng hải quân có thể đối đầu với hạm đội Thái Bình Dương của hải quân Hoa
Kỳ.
Trong những năm qua hải quân
Trung Quốc đã nhập quân hàng loạt những chiến hạm mới tối tân với một nhịp
nhanh chóng đáng ngại.
Từ năm 2013 hải quân Trung Quốc
đã nhận được 40 chiếc hộ tống hạm hạng 056 Jiangdao.
Những chiếc tàu này được trang bị
với súng đại bác 76 ly, hệ thống hỏa tiễn phòng không tầm gần FL-3000N cũng như
hỏa tiễn đối hạm. Những hộ tống hạm này được xem như tương đương với hộ tống hạm
hạng Gepard (Project 11660) của Việt Nam.
Chênh lệch cán cân lực lượng quá
lớn
Như thế trung bình cứ mỗi hai
tháng hải quân Trung Quốc đã tăng thêm một hộ tống hạm mới. Trong khi đó Việt
Nam đặt bốn chiếc Gepard từ năm 2011 nhưng đến bây giờ vẫn chỉ có vỏn vẹn hai
chiếc Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ.
Từ 2015 đến nay hải quân Trung Quốc
còn được thêm 13 chiếc khu trục hạm hạng 052D Luyang. Đấy là những chiến hạm được
trang bị với hệ thống radar và hỏa tiễn giống như hệ thống AEGIS của các chiến
hạm hạng Arleigh Burke của Hoa Kỳ, hiện là loại khu trục hạm hùng mạnh nhất thế
giới. Số khu trục hạm vậy cũng tăng với tỉ lệ khoảng ba tháng một chiếc.
Ngoài đó, tháng Sáu năm nay hải
quân Trung Quốc đã hạ thủy một loại chiến hạm mới còn to lớn và mạnh hơn hạng
052D nữa. Đó là một chiến hạm thuộc hạng 055 Renhai.
Với chiều dài là 180 m, trọng lượng
nước rẽ hơn 10.000 t và 128 ngăn chứa hỏa tiễn, lớp chiến hạm mới này tương
đương với các tuần dương hạm hạng Ticonderoga của Hoa Kỳ. Chiến hạm hạng 055 có
lẽ được thiết kế để hộ tống các hàng không mẫu hạm trong tương lai.
Ngoài sự gia tăng số lượng và
năng lực của các lực lượng chiến đấu trên biển, một phát triển khác ít được chú
ý đến nhưng cũng không ít đáng ngại cũng đã xảy ra từ năm 2011.
Đó là sự tăng cường của lực lượng
thủy quân lục chiến. Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã tuyên bố trong tháng 11 năm
2016 là sẽ gia tăng lực lượng Thủy quân lục chiến từ hiện nay khoảng 20.000
quân lên đến 100.000 quân.
Tháng Bảy năm 2017 Trung Quốc đã
chính thức khai trương căn cứ quân sự đầu tiên cách xa lãnh thổ nước này tại
Djibouti. Một lực lượng thủy quân lục chiến Trung Quốc đã được vận chuyển đến
Djibouti trên một tàu đổ bộ hạng 071.
Đó là một quân hạm với sân đáp trực
thăng và cảng chở thuyền đổ bộ và xe thiết giáp trong khoang. Những tàu hạng
071 có khả năng vận chuyển và yểm trợ một lực lượng thủy quân lục chiến cấp tiểu
đoàn để đổ bộ lên bất cứ bờ biển nào. Hải quân Trung Quốc hiện đang có 4 chiếc
tàu loại này và sẽ nhận được nhiều hơn.
Hải quân của Trung Quốc được chia
ra ba hạm đội, đó là hạm đội Bắc Hải, hạm đội Đông Hải và hạm đội Nam Hải. Hạm
đội Nam Hải là lực lượng kiểm soát vùng Biển Đông, và là đối thủ trực tiếp của
hải quân Việt Nam trong những cuộc xung đột trong quá khứ và tương lai.
Lực lượng tác chiến trên mặt nước
của hạm đội này bao gồm chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, ít nhất là 9 khu trục
hạm, 30 hộ tống hạm và khoảng 40 tuần duyên hạm.
Hạm đội Nam Hải còn có khoảng 22
tàu ngầm, trong số đó là toàn bộ lực lượng tàu ngầm nguyên tử chiến lược của
Trung Quốc với bốn chiếc hạng 094 Jin. Nỗ lực thiết lập và củng cố quyền kiểm
soát trên Biển Đông cũng nhằm vào mục đích bảo vệ cho hoạt động của những tàu
ngầm chiến lược này.
Ngoài ra hiện nay hạm đội Nam Hải
có ba chiếc tàu hạng 071 cũng như một số tàu chở quân khác.
Hạm đội Nam Hải là một lực lượng
vô địch trên Biển Đông, và là một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm cho lãnh hải Việt
Nam. Lực lượng hải vận của hạm đội này có thể đưa quân đánh chiếm bất cứ đảo
nào tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Thậm chí có thể đổ bộ lên nhiều đảo
cùng một lúc. Ý định tăng cường lực lượng thủy quân lục chiến và nổ lực đóng
tàu chở quân là một dấu hiệu rỏ ràng cho xu hướng chiến lược của giới lãnh đạo
Trung Quốc.
Trong hai năm qua Trung Quốc đã
hoàn tất việc mở rộng, xây cất căn cứ quân sự trên các đảo Gạc Ma (Johnson
South Reef), Chữ Thập, và sắp kết thúc các cấu trúc đảo nhân tạo trên các bãi
san hô như Đá Tư Nghiã (Hughes Reef). Khoảng cách từ đây đến các đảo của Việt
Nam thậm chí chỉ có 30 cây số.
Trung Quốc có thể dùng các đảo
này làm căn cứ hậu cần và đem máy bay chiến đấu đến đây để yểm trợ cho các lực
lượng hải quân đổ bộ lên các đảo Việt Nam.
Các đơn vị đóng trên các đảo của
Việt Nam như Song Tử Tây (Southwest Cay), Sinh Tồn (Sin Cowe Island) và thậm
chí Trường Sa chắc chắn sẽ không đủ quân số và hỏa lực để chống đối một lực lượng
đổ bộ được yểm trợ bởi những tàu hạng 071, hàng không mẫu hạm Liêu Ninh cũng
như chiến đấu cơ từ Đá Chữ Thập.
Trước những đe dọa đó, Việt Nam
chuẩn bị gì?
Tin tức về những phát triển quân
sự tại Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng những gì được biết qua những nguồn thông
tin Tây Phương cho thấy là Quân đội nhân dân vẫn rất bị động.
Mặc dù tình thế địa hình trên
vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng bất lợi, những biện pháp trang bị cho
hải quân và không quân không có vẻ theo một kế hoạch chiến lược nhất định và tạo
sự nghi ngờ là giới lãnh đạo Việt Nam chưa có một chính sách quân sự thích nghi
với những thử thách trên Biển Đông.
Năm 2016, hải quân Việt Nam có
hai chiếc hộ tống hạm hạng 11660 (biệt danh của Nato là Gepard) của Nga, sáu
chiếc tàu ngầm hạng 877 (Kilo) và 12 tuần duyên hạm hạng 1241E Molnija
(Tarantul).
Cơ sở của Trung Quốc
trên Đá Chữ Thập-Hình ảnh CSIS/AMTI
Ngoài ra còn năm chiếc hộ tống hạm
nhẹ và lỗi thời thuộc hạng Petya đã được xử dụng từ thập niên 70.
Hiện nay Việt Nam đang thương lượng
mua thêm hai chiếc Gepard nữa. Cuối năm nay chiếc hộ tống hạm Gepard thứ ba với
khả năng chuyên môn săn tàu ngầm sẽ đến Việt Nam.
Sau ba thập niên gần như không có
một biện pháp tân trang nào cho quân đội, từ năm 2011 hải quân Việt Nam đã trải
qua một cuộc tân tiến hóa đáng kể.
Nhưng lực lượng hải quân hiện nay
có lẻ vẫn chưa đủ để duy trì một thế lực ngăn chận nước khác xâm nhập vùng kinh
tế độc quyền và các đảo.
Bảo vệ các đảo là một mặt, nhưng
không kém quan trọng là duy trì đường dây tiếp tế cho các đảo trong trường hợp
có sự xung đột quân sự. Cho nhiệm vụ đó tàu ngầm và đặt biệt là chiến hạm lớn
là dụng cụ thích hợp hơn các tuần duyên hạm hiện đông số nhất trong đội ngũ của
hải quân Việt Nam.
Nhưng hải quân Việt Nam chỉ có
hai chiếc chiến hạm lớn là hộ tống hạm Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ. Tuy đã được
đặt từ sáu năm trước nhưng lớp tàu chiến có năng lực nhất của hải quân Việt Nam
có vẻ không được ưu tiên cho nên hai chiếc còn lại vẫn chưa được giao.
Thêm nữa thiết bị vận tải của hải
quân Việt Nam để tiếp tế cho các đảo cũng rất giới hạn.
Hải quân Việt Nam hiện nay có khoảng
25 tàu quân vận. Trong đó có một số tàu cũ hạng LST của hải quân Việt Nam Cộng
Hòa để lại, loại tàu này đã được sử dụng từ thế chiến thứ hai. Khả năng chở
quân và hàng hóa eo hẹp, lực lượng tác chiến cũng giới hạn, như thế, đường dây
tiếp tế cho các đảo sẽ rất dễ bị Trung Quốc cắt đứt, nhất là nếu có máy bay chiến
đấu hoạt động từ các đảo Chữ Thập và Vành Khăn.
Ngoài ra hải quân Việt Nam cũng
thiếu thiết bị để rà mìn và không có máy bay thám sát tầm xa. Đó cũng là những
hệ thống vũ khí cần thiết để kiểm soát và giữ những tuyến đường đến các đảo.
Trong khi đó Việt Nam lại có ý muốn
mua hỏa tiễn hành trình Klub bắn từ tàu ngầm lên đất liền. Hỏa tiễn Klub hoặc
Kalibr là một gia đình hỏa tiễn siêu thanh với nhiều loại và thuộc vào những vũ
khí tối tân nhất của Nga. Nhưng không rõ là Việt Nam theo đuổi chiến lược gì với
những hỏa tiễn hành trình. Nếu các tàu ngầm Kilo hoặc các hộ tống hạm Gepard của
Việt Nam có được loại hỏa tiễn đối hạm của gia đình Klub/ Kalibr, thay vì loại
bắn mục tiêu trên bờ, thì khả năng đe dọa của các tàu chiến này đối với hải
quân Trung Quốc sẽ tăng đáng kể. Và đó sẽ là một trang bị hợp lý hơn cho hải
quân.
Việt Nam cũng muốn mua loại hỏa
tiễn BrahMos của Ấn Độ và Nga cùng chế tạo. Loại hỏa tiễn siêu thanh này là vũ
khí đối hạm lợi hại nhất hiện tại. Nhưng chúng hơi lớn để dùng trên các hộ tống
hạm Gepard.
Và để bắn từ đất liền với hiệu quả
thì Việt Nam lại thiếu phương tiện để phát hiện mục tiêu và điều khiển hỏa lực,
thí dụ như máy bay thám sát.
Mua hay không mua?
Nói tóm tắt, trong tình thế bây
giờ hải quân Việt Nam cần thêm gấp một số chiến hạm lớn cở hộ tống hạm hoặc khu
trục hạm, phương tiện rà mìn, tàu quân vận, máy bay thám sát tầm xa và hỏa tiễn
đối hạm siêu thanh để bắn từ tàu chiến và tàu ngầm.
Nhưng hiện tại không có dấu hiệu
là chính phủ Việt Nam sẽ mua những thiết bị này.
Một yếu tố quan trọng cho việc bảo
vệ chủ quyền trên biển cũng là lực lượng không quân. Việt Nam hiện nay có 107
chiếc chiến đấu cơ phản lực. Trong đó có 11 chiếc Su-27 và 35 chiếc Su-30 là những
máy bay tân tiến. Số còn lại là chiến đấu cơ loại MiG-21 và Su-22 lỗi thời.
Hai con số thí dụ từ hai quốc gia
khác cho thấy sự thiếu kém của không quân Việt Nam: Không quân Singapore hiện
đang có 84 chiếc chiến đấu cơ tối tân (F-16 C/D và F-15 SG) để bảo vệ một lãnh
thổ bằng 1/3 diện tích Sài Gòn, không quân Đài Loan có khoảng 400 chiến đấu cơ
hiện đại (F-16 A/B, F-5 E, Mirage 2000) cho một lãnh thổ bằng 1/9 Việt Nam.
Cũng không được quên là chỉ trên
đảo Hải Nam Trung Quốc có đóng khoảng 200 chiến đấu cơ.
Với lực lượng không quân như thế,
Việt Nam khó có thể phản ứng mạnh mẻ như Nhật Bản năm 2014 trên Biển Hoa Đông
trong trường hợp Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng không
(ADIZ, Air Defense Identification Zone) trên không phận Biển Đông.
Nói chung quân đội Việt Nam có một
nhu cầu tân trang khổng lồ.
Ngay đến quân chủng bộ binh là lực
lượng nòng cốt của Quân đội nhân dân cũng vẫn phải lệ thuộc vào những hệ thống
vũ khí cũ mèm từ thập niên 60. Thí dụ điển hình là lực lượng thiết giáp: đại đa
số xe tăng của Việt Nam là loại T-54/ T-55.
Loại chiến xa này đã xuất hiện từ
cuộc chiến tranh Nam Bắc. Những xe tăng đó xem như vô dụng nếu phải đương đầu với
những xe tăng hiện đại hơn của Trung Quốc.
Nhưng theo các ước lượng của giới
nghiên cứu quân sự, Việt Nam chỉ dành một ngân sách tương đối nhỏ cho quốc
phòng trung bình là khoảng 4 tỷ USD hàng năm trong những năm kể từ 2014, mặc dù
đó đã gần gấp đôi ngân sách quốc phòng của những năm trước 2011.
Trong đó phần dành để đầu tư vào
vũ khí mới có lẻ chỉ chiếm một phần nhỏ, ước đoán khoảng vài trăm triệu USD.
Như thế quân đội chỉ có thể tân trang với những bước nhỏ, và đó sẽ là một quá
trình lâu dài.
Có thể sẽ là quá dài và tai hại đối
với những phát triển trên Biển Đông.
Vũ khí tối tân như máy bay hoặc
tàu chiến là những hệ thống kỹ thuật phức tạp và cần phải có sự đào tạo và tập
luyện lâu dài cho quân sĩ để sử dụng với kết quả tối đa trong trường hợp giao
chiến.
Các quân đội Tây Phương thường lệ
cần khoảng hai năm cho một hệ thống vũ khí mới như chiến hạm hoặt một kiểu máy
bay chiến đấu mới để đạt được trạng thái sẵn sàng chiến đấu (operational
readiness hay combat readiness).
Theo cách nhìn đó, trong số những
hệ thống vũ khí tinh vi nhất của hải quân Việt Nam - sáu chiếc tàu ngầm và hai
chiếc hộ tống hạm - có lẽ chỉ có một phần có thể được xem là 'sẵn sàng chiến đấu'
vì thời gian huấn luyện chưa đủ.
Và e rằng hai chiếc chiến hạm thứ
năm và thứ sáu của lớp Gepard Việt Nam định mua thêm sẽ đến trể nếu chúng được
đóng với vận tốc hiện tại.
Vậy phải làm gì để tạo nên một khả
năng ngăn cản đáng tin trong thời gian ngắn nhằm kềm chế những tham vọng của
Trung Quốc?
Hiện đại hóa theo cách nào?
Việt Nam phải ưu tiên cho việc
tân trang quân đội. Chi phí cho quốc phòng bắt buộc phải tăng thêm.
Tuy rằng từ 2015, theo thống kê của
viện nghiên cứu hòa bình SIPRI, Việt Nam đã lên hạng tư trong khối ASEAN về
ngân sách quốc phòng, nhưng thật ra chỉ hơn các quốc gia nghèo hơn như
Philippines, Myanmar, Lào...
Chi phí của Việt Nam cho quốc
phòng tính theo đầu người là khoảng 49 USD hàng năm, so với trung bình của
ASEAN là 388 USD thì đây còn rất nhiều khả năng để tiến lên.
Gia tăng đầu tư cho quốc phòng -
đó cũng là một sự đầu tư cho tương lai - là một việc. Việc khác là phải chi tiền
như thế nào để mau chóng có được một số đáng kể của những hệ thống vũ khí tân
tiến như đã nêu trên.
Túi tiền nhỏ, nhưng muốn mua đồ mới
đắt thì cuối cùng sẽ không đủ đồ sài. Việt Nam phải từ bỏ sự e ngại đối với việc
dùng vũ khí 'second-hand'.
Những tàu chiến hoặc máy bay quân
sự đã được các cường quốc Tây Phương, Nhật và thậm chí nước Nga sử dụng thường
được bán lại với một giá thấp hơn giá mới rất nhiều.
Như thế có thể mua được một số đáng
kể với một ngân sách khiêm nhường. Trong nhiều trường hợp, những hệ thống vũ
khí này còn tốt và chỉ cần tu sửa ít để tiếp tục sử dụng thêm một thời gian
lâu.
Nhiều quốc gia đã và đang trang bị
cho quân đội với vũ khí sài rồi. Thí dụ như Brazil và Argentine đều có tàu chiến
cũ của Anh Quốc và Hoa Kỳ hoặc máy bay chiến đấu của Pháp.
Chiếc hàng không mẫu hạm Viraat hải
quân Ấn Độ dùng đến 2016 là chiếc Hermes xưa của hải quân Anh Quốc. Nhiều quốc
gia Đông Âu như Ba Lan, Romania... đã mua chiến đấu cơ F-16 cũ của Hoa Kỳ.
Quân đội Ba Lan cũng thừa kế một
số xe tăng Leopard của Đức. Hải quân Đại Hàn đã sử dụng chiến hạm cũ của Hoa Kỳ.
Những khu trục hạm mạnh nhất của Đài Loan là tàu thuộc lớp Kidd của hải quân Mỹ...
Thị trường cho vũ khí
'second-hand' hiện tại cũng có nhiều thứ đáng chú ý cho Việt Nam. Thí dụ như những
máy bay thám sát và săn tàu ngầm P-3 Orion Nhật Bản đang muốn cho về hưu.
Không quân Hoa Kỳ có một số lớn
chiến đấu cơ F-16 sắp được thay thế bằng chiếc F-35.
Hải quân Úc đang chuẩn bị loại ba
chiếc hộ tống hạm hạng Adelaide. Hải quân Hoàng Gia Anh cũng đang có ý định bán
năm chiếc hộ tống hạm hạng Type 23.
Những tàu của Anh Quốc và Úc tuy
cũ nhưng vẫn có khả năng tác chiến vượt hẳn hạng Gepard của Việt Nam. Từ khi
Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, những thiết bị này đều
là những thứ có thể nằm trong tầm tay của Việt Nam.
Mua vũ khí để tân trang quân đội
trong tình huống lãnh thổ bị đe dọa không phải là một hành động hiếu chiến. Đằng
khác một lập trường chính trị trung lập và hiếu hòa không đồng nghiã là không
được có một lực lượng vũ trang mạnh. Những quốc gia với truyền thống trung lập bền
vững nhất Âu Châu - Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan - đều nuôi một quân đội nhỏ
nhưng tinh nhuệ và trang bị tối tân.
Chính sách quốc phòng của các quốc
gia này đều phản ảnh nhận xét của nhà chính trị Cicero thời đế quốc La Mã 'Nếu
muốn có hòa bình, phải chuẩn bị cho chiến tranh' (si vis pacem para bellum).
Nếu quyết tâm bảo vệ quyền lợi quốc
gia và lãnh thổ, giới lãnh đạo chính trị và quân sự tại Việt Nam phải nhanh
chóng phát triển một chính sách quốc phòng thích nghi với những thử thách trên
Biển Đông và theo đó gấp rút thực hiện những biện pháp nhằm tân trang cho quân
đội.
*
Bài viết thể hiện quan điểm
riêng của kỹ sư hàng không Nguyễn Xuân Vĩnh từ Frankfurt, Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét