Các nước Đông Nam Á có rất ít điểm
chung, mà chế độ chính trị cũng không nằm trong số đó.
Đông Nam Á là khu vực khá đa dạng
về chính trị, với nhiều kiểu thể chế khác nhau cùng tồn tại như quân chủ, dân
chủ, và độc tài. Bài viết này đưa ra một bức tranh tổng thể về các kiểu thể chế
chính trị của 11 nước trong khu vực, thông qua việc phân loại các chế độ dựa
trên hai tiêu chí là tự do và bầu cử.
Tiêu chí tự do căn cứ vào mức độ
tự do chính trị và tự do dân sự của các quốc gia. Theo đánh giá của Freedom
House, mức độ tự do được chia thang từ 1 tới 7, với 1 là tự do nhất và dần về 7
là kém tự do nhất. Trên cơ sở đó, Freedom House xếp các kiểu thể chế thành ba dạng
chính: tự do, tự do một phần, và không tự do.
Tiêu chí bầu cử được căn cứ vào mức
độ đa đảng, cạnh tranh, tự do và công bằng của các cuộc bầu cử. Kết hợp với
tiêu chí tự do, có thể chia ra thành năm dạng chế độ dưới đây.
Độc tài đóng – closed
authoritarian regime
Độc tài đóng là kiểu chế độ không
tổ chức bầu cử đa đảng. Đông Nam Á có bốn nước được liệt kê vào dạng này là
Brunei, Thái Lan, Việt Nam, và Lào.
Brunei thuộc kiểu chế độ quân chủ
chuyên chế cha truyền con nối, trong đó vua đứng đầu nhà nước và chính phủ. Quốc
hội gồm các thành viên do vua chỉ định chứ không thông qua bầu cử, và chỉ là một
cơ quan tư vấn cho Hoàng gia. Chính quyền của quốc vương Bolkiah được cho là đã
giam cầm tùy tiện, giới hạn nhiều quyền tự do và hạn chế quyền lao động của người
dân. Theo báo cáo của Freedom House năm 2017, Brunei được xếp vào dạng không tự
do.
Thái Lan từng là một nền dân chủ
bầu cử, song hiện bị quân đội cai trị một cách độc đoán sau cuộc đảo chính quân
sự lật đổ chính phủ dân sự năm 2014. Người ta gọi đây là độc tài quân sự. Quân
đội nước này áp đặt rất nhiều giới hạn đối với các quyền tự do chính trị và dân
sự, và liên tục đàn áp những người bất đồng chính kiến. Vì lẽ đó, Thái Lan cũng
nằm trong danh mục các nước không tự do.
Binh lính Thái Lan đang đứng canh
gác trong cuộc đảo chính ở thủ đô Bangkok vào ngày 22 tháng 5 năm 2014. Ảnh:
Business Insider
Việt Nam và Lào đều chịu kiểu cai
trị độc đoán của đảng cộng sản. Dù không còn theo đuổi ý thức hệ cộng sản (chủ
nghĩa tập thể, kế hoạch hóa kinh tế,…) cũng như có một số cải cách tự do hóa xã
hội, song nhìn chung không có nhiều tiến bộ về chính trị. Chính vì vậy, cả hai
nước cùng nằm trong nhóm chế độ độc tài độc đảng. Thậm chí, gần đây, chính phủ
hai nước còn gia tăng kiểm soát xã hội, bắt giữ những người bất đồng chính kiến.
Việt Nam và Lào cũng nằm trong
danh sách không tự do của Freedom House suốt nhiều năm nay.
Chế độ độc tài bầu cử đảng thống
lĩnh – hegemonic electoral authoritarian regime
Đây là kiểu chế độ tổ chức các cuộc
bầu cử đa đảng song không đảm bảo sự cạnh tranh, tự do và công bằng giữa các đảng.
Trong đó, nền chính trị bị một đảng chi phối áp đảo trong thời gian dài (thường
chiếm trên 70% số phiếu trong các kỳ bầu cử), và đảng này thường tìm cách làm
suy yếu các đảng đối lập, khiến chúng hầu như không thể gây ra ảnh hưởng gì
trong các cuộc bầu cử.
Lee Kuan Yew, nhà lãnh đạo độc
tài của Singapore. Ảnh: The Independent.
Về mặt hình thức, Singapore theo
nền dân chủ đại nghị, song trên thực tế thì quyền lực lại tập trung vào tay đảng
Hành động Nhân dân (PAP) và gia tộc họ Lý. Đảng này chi phối nền chính trị
Singapore kể từ khi nước này giành độc lập vào năm 1959, thông qua việc sử dụng
địa vị cầm quyền của mình để kiểm soát các nguồn lực, truyền thông, tư pháp và
ngăn các đảng đối lập mạnh lên.
Tại các cuộc bầu cử kể từ 1968 tới
nay, PAP luôn chiến thắng với tỷ lệ áp đảo, chưa bao giờ xuống dưới 90% số ghế
trong quốc hội. Đồng thời, các quyền tự do ngôn luận, lập hội, và biểu tình ở
Singapore bị giới hạn. Vì vậy, nó được gọi là độc tài bầu cử đảng thống lĩnh.
Freedom House năm 2017 xếp
Singapore vào dạng tự do một phần.
Chế độ độc tài cạnh tranh –
competitive authoritarian regime
Trong kiểu chế độ này, các cuộc bầu
cử thường tương đối cạnh tranh giữa nhiều đảng phái, song lại không đảm bảo sự
tự do và công bằng. Ấy là do tồn tại một số đảng đối lập tương đối mạnh, giành
được số phiếu đáng kể trong các cuộc bầu cử, đảm bảo mức độ cạnh tranh bầu cử
nhất định, song những đảng này lại khó giành chiến thắng vì đảng cầm quyền luôn
sử dụng các phương tiện sẵn có để thao túng bầu cử nhằm duy trì quyền lực.
Thoạt nhìn Cambodia có vẻ tương tự
như Singapore, khi Thủ tướng Hun Sen và đảng Nhân dân Cambodia (CPP) chi phối nền
chính trị nước này trong hơn ba thập kỷ (dù ở mức độ thấp hơn nhà họ Lý và
PAP). Tuy nhiên, trong các cuộc bầu cử, mức độ cạnh tranh ở Cambodia tương đối
cao khi đảng đối lập giành được nhiều phiếu bầu. Chẳng hạn cuộc bầu cử Quốc hội
năm 2013, đảng Cứu quốc Cambodia (CNRP, đảng đối lập chính) giành được tới hơn
40% số ghế. Để duy trì quyền lực của mình, Hun Sen thực hiện nhiều biện pháp lạm
quyền như bắt giữ lãnh đạo đảng đối lập, đóng cửa các cơ quan truyền thông độc
lập, hoặc truy tố những người chỉ trích chính quyền. Vì vậy, Cambodia bị
Freedom House xếp vào dạng không tự do.
Tờ báo độc lập The Cambodia Daily
đã bị chính quyền Hun Sen ép buộc đóng cửa. Ảnh: NBC News
Cũng tương tự như vậy, ở
Malaysia, liên minh cầm quyền Mặt trận Quốc gia (BN) đã nắm quyền cai trị từ
khi độc lập vào năm 1957. Nền chính trị Malaysia có mức độ cạnh tranh tương đối
cao, khi đảng đối lập luôn giành được số phiếu bầu trên 45% số phiếu cử tri và
giành được quyền kiểm soát ở một số bang.
Malaysia tổ chức các cuộc bầu cử
thường xuyên, song không thoả mãn các tiêu chuẩn tự do và công bằng. Hệ thống bầu
cử được thiết kế có lợi cho đảng cai trị thông qua các biện pháp như các khu vực
bầu cử được chia sao cho đảng cầm quyền có thể giành chiến thắng, không cho các
ứng viên phía đối lập tiếp cận bình đẳng với truyền thông, thậm chí còn bị cho
là gian lận phiếu bầu.
Bên cạnh đó, các nhân vật đối lập
liên tục bị chính quyền kết tội liên quan đến việc phê phán chính quyền hay tổ
chức biểu tình. BN cũng liên tục đàn áp những người chỉ trích thông qua việc
ban hành luật về giới hạn tự do ngôn luận, hay truy tố các lãnh đạo đối lập của
Liên minh Nhân dân (PR) nhằm làm suy yếu nó. Chẳng hạn, vào năm 2016, dưới sự
chi phối của BN, tòa án đã kết tội chính trị gia đối lập Rafizi Ramli vì phanh
phui vụ tham nhũng của công ty 1MDB do chính phủ điều hành.
Theo Freedom House, Malaysia là
quốc gia tự do một phần.
Dân chủ bầu cử – elecrotal
democracy
Đây là kiểu chế độ có các cuộc bầu
cử đa đảng cạnh tranh, tự do, công bằng, định kỳ; và quyền lực được chuyển giao
hòa bình giữa các đảng khác nhau. Tuy nhiên, trong một số chế độ các quyền tự
do chính trị và dân sự không hoàn toàn được đảm bảo, chỉ ở mức tự do một phần
(3 điểm tới 5 điểm trên thang 7), nên chúng chỉ được gọi là các nền dân chủ bầu
cử.
Bốn nước mà chúng ta chưa kể tới ở
Đông Nam Á là Indonesia, Philippines, Myanmar, và Đông Timor đều thuộc dạng chế
độ này.
Indonesia là nền dân chủ tương đối
mới, được thiết lập từ năm 1998 sau khi chế độ độc tài của Suharto sụp đổ. Tuy
nhiên, có thể nói rằng hiện Indonesia có nền dân chủ tốt nhất Đông Nam Á, khi mức
độ tự do chính trị tương đối cao (2/7), quyền lực được chuyển giao hòa bình giữa
các đảng phái thông qua bầu cử đa đảng, tự do và công bằng. Tuy nhiên,
Indonesia vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề như bạo lực chống lại các nhóm
thiểu số, các bộ luật hạn chế tự do như luật về phỉ báng. Indonesia được xếp
vào dạng tự do một phần trong báo cáo của Freedom House.
Philippines là một trong những nền
dân chủ lâu đời nhất châu Á (1948), vận hành tương đối tốt với các cuộc bầu cử
đa đảng, tự do và công bằng, và cũng chuyển giao quyền lực hòa bình. Nó được
coi là tự do một phần, và các chỉ số tự do dân sự và chính trị tương đối cao
(cùng là 3 điểm trên thang 7). Tuy nhiên, vấn đề quan trọng trong nền chính trị
của Philippines chính là sự chi phối của các gia tộc giàu có, điều này tạo ra một
xã hội bất bình đẳng đi kèm với các vấn nạn xã hội. Điều này khiến cho nền dân
chủ của nó không thể củng cố để trở thành một nền dân chủ tự do, dù đã dân chủ
hóa từ rất lâu.
Myanmar mới chuyển đổi sang nền
dân chủ gần đây tính từ cuộc bầu cử quốc hội vào năm 2015, khi Liên Minh Quốc
gia vì Dân chủ (NLD) đã giành chiến thắng áp đảo. Tuy nhiên, Myanmar vẫn đang
trong giai đoạn chuyển tiếp, và quân đội vẫn nắm giữ nhiều quyền lực khiến cho
chính quyền mới gặp nhiều khó khăn trong việc điều hành. Mặc dù các chỉ số tự
do của Myanmar đã được cải thiện so với thời kỳ quân đội nắm quyền (mức tự do
chính trị và tự do dân sự của Myanmar hồi năm 2010 đều là 7 điểm, nay đã cải
thiện thành 5 điểm), song mức độ tự do và việc bảo vệ quyền con người ở nước
này vẫn chưa thể coi là ổn, nhất là trong những vụ việc như thanh lọc người
Rohingya. Bởi vậy, Myanmar vẫn bị xếp vào dạng không tự do.
Một nhóm ngưởi Islam biểu tình
trước cửa đại sứ quán Myanmar tại Jakarta nhằm phản đối việc đàn áp người
Rohingya. Ảnh: Business Insider
Cuối cùng, Đông Timor dù là một
nước khá non trẻ kể từ hồi giành được độc lập khỏi Indonesia vào năm 2002, song
tới nay đã trở thành một nền dân chủ vận hành tương đối tốt. Nó có một hệ thống
chính trị đa đảng, với các cuộc bầu cử cạnh tranh cũng như chuyển giao quyền lực
hòa bình. Tuy nhiên, các thiết chế dân chủ của nó chưa bền vững, nền tư pháp
còn yếu và vẫn chưa độc lập hẳn khỏi các ảnh hưởng chính trị bên ngoài. Nền báo
chí của Đông Timor chưa hoàn toàn tự do khi mà thông tin về các chủ đề như tham
nhũng bị kiểm duyệt. Đông Timor được xếp vào dạng tự do một phần.
Dân chủ tự do – liberal democracy
Cũng như dân chủ bầu cử, chế độ
dân chủ tự do sở hữu các cuộc bầu cử đa đảng cạnh tranh, tự do, công bằng, định
kỳ; và quyền lực được chuyển giao hòa bình giữa các đảng khác nhau. Điểm khác
biệt quan trọng là, ở những nước dân chủ tự do, các quyền tự do dân sự và chính
trị của người dân được đảm bảo ở mức cao dựa theo thang điểm của Freedom House.
Đông Nam Á không có quốc gia nào
được xếp vào nhóm dân chủ tự do, bởi cả 11 nước đều có các chỉ số tự do nằm
ngoài thang điểm từ 1 tới 2,5.
Như vậy, căn cứ theo các tiêu chí
phân loại ở trên, ta có thể xếp các chế độ chính trị trong khu vực Đông Nam Á
vào các nhóm như sau: độc tài đóng (Lào, Thái Lan, Brunei, và Việt Nam); độc
tài bầu cử đảng thống lĩnh (Singapore); độc tài cạnh tranh (Malaysia,
Cambodia); và dân chủ bầu cử (Indonesia, Philippines, Myanmar, và Đông Timor).
Các số liệu về chỉ số tự do trong bài viết này được lấy từ báo cáo Freedom in the World 2017 của Freedom House.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét