Biên dịch: Nguyễn Minh Tài | Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Như
Thanh
Nguồn: Zachary Abuza, “International Relations Theory and
Vietnam”, Contemporary Southeast Asia
Tóm lược: Mặc dù được tuyên truyền theo đường lối cách mạng
vô sản quốc tế, chính sách đối ngoại của Hà Nội vẫn luôn dựa một cách chắc chắn
vào các giả định của chủ nghĩa hiện thực. Với sự ra đời của chính sách Đổi mới,
đã có sự chuyển đổi căn bản trong thế giới quan của Việt Nam: Hà Nội kiên quyết
đi theo các nguyên tắc về sự phụ thuộc lẫn nhau phức tạp và hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu.
Sự chuyển biến này được thấy rõ ràng nhất trong mối quan hệ của
Hà Nội với các nước ASEAN và Trung Quốc. Bài viết này lập luận rằng bởi vì Việt
Nam không còn có thể đương đầu với Trung Quốc theo nghĩa Hiện thực truyền thống
được nữa và cũng bởi vì Việt Nam quá nhỏ bé để ràng buộc Trung Quốc vào một mức
độ phụ thuộc lẫn nhau nhất định nào đó, Việt Nam hy vọng sẽ kiềm chế hành vi của
Trung Quốc thông qua sự phụ thuộc lẫn nhau gián tiếp, thông qua tư cách thành
viên ASEAN – một tổ chức Bắc Kinh cho là cần thiết để phát triển kinh tế của
riêng mình.
Lời giới thiệu
Đối mặt với sự thù địch có tính lịch sử, các nỗ lực thống trị
liên tục của Trung Quốc, mối hồ nghi về ý định của Trung Quốc, tranh chấp biên
giới liên miên, vấn đề thương mại và dân tộc Trung Quốc, và các mối đe dọa từ sức
mạnh tuyệt đối của Trung Quốc (về mặt kinh tế, nhân khẩu và quân sự), làm thế
nào để Việt Nam đối phó với nước này? Việt Nam có thể sử dụng chiến lược nào để
xử lý mối quan hệ với người láng giềng phía bắc của mình? Mối quan hệ Trung-Việt
cho thấy gì về quyền lực nhà nước nhỏ?
Bài viết này bắt đầu bằng việc khẳng định rằng những nhà hoạch
định chính sách đối ngoại Việt Nam trước đây đã dựa trên các luận điểm của chủ
nghĩa tân hiện thực: đầu tiên, bởi vì sức mạnh trong hệ thống quốc tế được phân
phối không đồng đều, Việt Nam buộc phải có chính sách nhằm nâng cao khả năng bị
hạn chế của mình. Điều này đã được thực hiện thông qua việc áp dụng chiến thuật
du kích và cân bằng với kẻ thù vào từng thời điểm cụ thể – lúc đầu cùng với
Liên Xô và Trung Quốc chống lại Mỹ, sau đó cùng với Liên Xô chống lại Trung Quốc.
Thứ hai, bản thân quyền lực cũng là một mục tiêu chính sách,
không chỉ là một công cụ. Việt Nam đã tạo ra một “mối quan hệ đặc biệt” với Lào
và Campuchia nhằm chi phối nền chính trị, kinh tế và quân đội của họ. Thật vậy,
Việt Nam đã cố gắng hoạch định tầm nhìn riêng về mối quan hệ với Đông Nam Á vào
cuối những năm 1970.
Thứ ba, Việt Nam hành xử như một thực thể đơn nhất và duy lý
được vận hành trong một hệ thống nhà nước trung tâm. Mặc dù có quan hệ ràng buộc
với cả Trung Quốc và Liên Xô trong những năm 1960, Việt Nam đã cố gắng để duy
trì sự độc lập của mình.[1] Bên cạnh mối quan hệ với các nước ở dưới sự kiểm
soát của Liên Xô trong COMECON (Hội đồng tương trợ kinh tế), Việt Nam đã có vài
mối quan hệ với các nước khác. Và rõ ràng, các nhà lãnh đạo Việt Nam nhận thức
được rằng đó là hệ thống tự cứu. Thực tiễn có tính hiện thực này đã dẫn đến việc
Việt Nam bị bán đứng hai lần bởi đồng minh, lần đầu tiên vào năm 1954, sau đó
vào năm 1971. Phản ứng thờ ơ của Liên Xô đối với sự xâm lược dưới danh nghĩa trừng
phạt của Trung Quốc trong năm 1979 tiếp tục củng cố hơn nữa quan điểm về hệ thống
tự cứu [của Việt Nam].
Cuối cùng, Việt Nam đã có khả năng tự tách chính trị trong
nước khỏi chính trị quốc tế khi mà chính sách đối ngoại và quyết sách an ninh
quốc gia được giữ độc quyền bởi chỉ một số ít các nhà lãnh đạo độc lập.
Có thể lập luận trên hai căn cứ rằng Việt Nam đã bác bỏ các
luận điểm của các nhà chủ nghĩa tân hiện thực. Đầu tiên, chủ nghĩa tân hiện thực
thừa nhận rằng các quốc gia tương tự nhau về chức năng có được vị trí của họ
trong hệ thống quốc tế từ chính sức mạnh mỗi nước. Tuy nhiên, Việt Nam đã đánh
bại ba quốc gia vốn có sức mạnh và công nghệ tiên tiến hơn hẳn. Thứ hai, chủ
nghĩa tân hiện thực lập luận rằng các quốc gia và các chính khách không thể bị
ràng buộc bởi đạo đức. Nhưng một phân tích về hành vi đàm phán ngoại giao Việt
Nam đã chỉ ra sự ràng buộc mạnh mẽ vào đạo đức và nghĩa vụ (những gì Henry
Kissinger mô tả là “sự tự tin vào chính nghĩa điên cuồng” [ferocious
self-righteousness]) đã cuối cùng làm tổn thương chính nước này.
Nhưng nhìn chung, ta sẽ phải nhận định rằng mô hình chiến lược
của Việt Nam liên kết chặt chẽ với chủ nghĩa tân hiện thực. Nếu không muốn nói
là Việt Nam hoàn toàn ủng hộ chủ nghĩa tân hiện thực với tất cả ý nghĩa của nó.
Tuy nhiên, các mối đe dọa liên tục đến sự sống còn buộc giới lãnh đạo nhìn nhận
thế giới là trò chơi tổng bằng không. Mặc dù có đồng minh, Hà Nội không phải
lúc nào cũng có thể phụ thuộc vào họ được. Và việc chấp nhận mô hình “hai phe”
đã buộc Việt Nam tham gia vào liên minh chống lại kẻ thù lớn hơn trong suốt hơn
một thập kỷ.
Chuyển đổi mô hình: Giai đoạn một
Thế giới quan của Việt Nam bắt đầu thay đổi vào năm 1986,
nhưng thật sự chuyển biến là từ năm 1988, khi Việt Nam bắt đầu cam kết giải quyết
cuộc xung đột ở Campuchia và phát triển một chương trình cải cách mở cửa kinh tế,
mang tên Đổi Mới. Việc áp dụng “Đổi Mới” đã minh họa chó sự thay đổi căn bản
trong thế giới quan của giới lãnh đạo Việt Nam. Theo lời của Gareth Porter, Việt
Nam không còn nhìn nhận thế giới dưới góc độ “hai phe hai khối”, mà bắt đầu ủng
hộ sự cần thiết của việc liên kết nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới
bằng cách tận dụng vị thế của Việt Nam trong phân công lao động toàn cầu.[2]
Nòng cốt của cách tiếp cận mới này là Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, tháng 12 năm 1986, Bộ trưởng Nguyễn
Cơ Thạch đã đề cập đến “sự phụ thuộc lẫn nhau”, thay vì khẳng định rằng “chủ
nghĩa tư bản đã phát triển đến tột độ”. Vào tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị đã
bí mật thông qua Nghị quyết 13 chính thức chấp nhận lập luận của Nguyễn Cơ Thạch
về sự phụ thuộc lẫn nhau và sự hòa nhập của Việt Nam vào nền kinh tế tư bản thế
giới. Nghị quyết 13 đã cung cấp một mô hình toàn diện mới cho an ninh quốc gia:
một nền kinh tế mạnh, tình hình quốc tế hòa bình, một nền quốc phòng “đủ mạnh”[3]
và gia tăng quan hệ song phương với các nước thuộc cả ba “thế giới”.
Tuy nhiên, Nguyễn Cơ Thạch đánh mất sự ủng hộ vào năm 1991 bởi
vì cách xử lý của ông về vấn đề Campuchia, do mặc dù Việt Nam rút quân khỏi nước
này nhưng vẫn không chấm dứt được sự cô lập về chính trị và kinh tế của cộng đồng
quốc tế đối với Hà Nội, và sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, những
nỗ lực kiên cường của Nguyễn Cơ Thạch chống lại việc bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc rõ ràng là không đi theo đường lối của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Văn Linh.
Nếu ta nhìn theo cách khác, Nguyễn Cơ Thạch đã cố gắng để
thay đổi quan điểm về mặt lý thuyết của Việt Nam từ chủ nghĩa tân hiện thực
sang một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau phức hợp với phương Tây và các nước ASEAN.
Vấn đề là ông không thể bác bỏ quan điểm của của các nhà hiện thực rằng nên có
sự đối trọng với Trung Quốc. Sau khi từ bỏ “mối quan hệ đặc biệt” với Lào và
Campuchia, giả định về sức mạnh của chủ nghĩa tân hiện thực thích hợp với việc
cải thiện quan hệ với phương Tây và các nước ASEAN, điều này sẽ có tác dụng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế đang đi xuống của Việt Nam, và tạo sự đối trọng
với Trung Quốc. Đây là thời điểm mà viện trợ của Liên Xô và cam kết với Việt
Nam đang dần đi xuống khi quan hệ Trung-Xô được bình thường hóa sau hội nghị
thượng đỉnh năm 1989 giữa Đặng Tiểu Bình và Gorbechev.
Nhìn chung, Nguyễn Cơ Thạch hiểu được sự cần thiết để Việt
Nam chuyển sang một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau phức hợp, để thứ nhất tăng cường
nội lực quốc gia, thông qua sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, và thứ hai là
củng cố ngoại lực bằng cách cải thiện quan hệ với ASEAN và phương Tây. Tuy
nhiên, bởi vì sự sợ hãi bao trùm đối với Trung Quốc, Nguyễn Cơ Thạch vẫn chủ
trương theo đuổi một số luận điểm của chủ nghĩa hiện thực.
Chuyển đổi mô hình: Giai đoạn hai
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII năm 1991,
Nguyễn Cơ Thạch bị buộc phải lui về phía sau bởi vì sự ưu ái của ông dành cho
phương Tây cùng với sự ủng hộ mạnh mẽ trong việc giải quyết vấn đề Campuchia để
Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới chỉ mang lại ít kết quả. Nhưng cùng
với sự giải quyết trên thực tế vấn đề Campuchia, nối lại quan hệ với các tổ chức
kinh tế đa phương, gia tăng thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
tăng trưởng kinh tế trong năm 1991, cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết,
đã có nhiều nỗ lực được rút kinh nghiệm từ chiến lược của Nguyễn Cơ Thạch. Kể từ
năm 1992, giới lãnh đạo Việt Nam đã thông qua Chiến lược an ninh toàn diện
(CSA). CSA, giống như ngoại giao toàn phương diện của Trung Quốc, có ba thành tố:
– Thứ nhất, thúc đẩy quan hệ song phương tốt đẹp với tất cả
các nước, bao gồm cả ” kẻ thù cũ” (như Hoa Kỳ và Trung Quốc);
– Thứ hai, không liên minh, cũng như không phụ thuộc vào
siêu cường nào; và
– Cuối cùng, duy trì môi trường hòa bình bên ngoài để tập
trung tất cả nguồn lực phát triển kinh tế.
CSA không thể được xem là hoàn toàn chuyển đổi sang lăng
kính phụ thuộc lẫn nhau phức tạp; tuy nhiên, nó đã phát triển. Câu hỏi đầu tiên
là vì sao? Thứ hai, tại sao quan điểm của chủ nghĩa tân hiện thực bị bác bỏ, đặc
biệt là khi đối mặt với các mối đe dọa liên tục của Trung Quốc, và sự mâu thuẫn
trong giới lãnh đạo Việt Nam trước các ý định của Trung Quốc?
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét