“Có hai thứ vô hạn: vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…”
(Two things are infinite: the universe and human stupidity - Albert Einstein)
Hơn bảy thập kỷ sau khi lập quốc (1945) và hơn bốn thập kỷ
sau cuộc Chiến tranh Việt Nam (1975), đất nước vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường.
Tại sao lại có bi kịch này? Làm thế nào để thoát ra ra khỏi ngã ba đường của lịch
sử?
Trong nhiều thập kỷ, đất nước đã bị sa vào chiến tranh và bạo
lực, cực đoan và hận thù, như cái bẫy ý thức hệ. Những thế lực cực đoan (trong
và ngoài nước) đã thao túng số phận đất nước này, làm cho chính họ và ít nhất một
thế hệ người Việt bị ngộ nhận, lạc vào ma trận (như Chiến tranh Việt Nam). Muốn
thoát ra khỏi ngã ba đường không dễ. Báo cáo “Việt Nam 2035” khuyến nghị phải đổi
mới thể chế và cải cách vòng hai.
Có nhiều việc phải làm, như cách thể chế và chống tham
nhũng. Trong phạm vi bài viết này, hãy thử xem lại mấy điều cơ bản: Thứ nhất là
đặc điểm bối cảnh hiện nay; Thứ hai là nguyên nhân và hệ quả; Thứ ba là các giải
pháp khả thi.
Đặc điểm bối cảnh hiện nay
Cuộc tranh cãi hiện nay về giải pháp nào cho các vấn nạn quốc
gia vẫn còn bế tắc. Đất nước có thể tiếp tục suy thoái và tụt hậu, nếu vẫn chưa
cải cách được thể chế, vẫn chưa xử lý được nạn tham nhũng bị thao túng bởi các
nhóm lợi ích.
Sau bao thăng trầm, Việt Nam vẫn bị mắc kẹt tại ngã ba đường,
bị các nhóm lợi ích tham nhũng bắt làm con tin, mà vẫn tưởng mình đang làm chủ.
Đoàn tàu đất nước bị bắt cóc (hijacked), đang đi chệch đường ray, chạy loanh
quanh trong thung lũng mù, mà vẫn tưởng đang chạy trên đường ray “kinh tế thị
trường định hướng XHCN”.
Nhiều người ngồi trong các toa tàu (cả chủ lẫn khách) vẫn tưởng
an toàn và vô can, mà không biết rằng đoàn tàu đang lầm đường lạc lối. Một số
người nhanh chân thu gom tài sản, nhảy khỏi đoàn tàu, hy vọng thoát thân tại một
“thiên đường” nào đó.
Một hệ quả đáng buồn là dòng người và dòng tiền đang lũ lượt
ra đi. Theo UN DESA, từ năm 1990 đến 2015 đã có 2.558.678 người Việt di cư ra
nước ngoài (trung bình mỗi năm gần 100 ngàn người). Theo World Bank (năm 2013),
Việt Nam là một trong 10 quốc gia có nhiều người di cư nhất khu vực Đông Á-Thái
Bình Dương.
Trong mấy năm qua, đã có 92 tỷ USD được chuyển ngầm ra nước
ngoài bằng nhiều cách, và có hàng trăm người Việt có tên trong Hồ sơ Panama và
có tài khoản tại các “thiên đường trốn thuế” như Virgin Islands, Cayman và
Malta… Đây không chỉ là hiện tượng tham nhũng, chảy máu chất xám và tài nguyên,
mà còn là khủng hoảng lòng tin.
Những vấn đề hậu chiến như hòa giải dân tộc, tái thiết đất
nước, cải cách kinh tế và chính trị, vẫn còn ngổn ngang như mới bắt đầu. Những
thành tựu đầy ấn tượng của hai thập kỷ cải cách kinh tế thị trường đã bị triệt
tiêu bởi thiếu đổi mới chính trị. Các nhóm lợi ích dựa vào cơ chế thân hữu, tiếp
tục thao túng thể chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” như một miếng mồi
ngon, làm đất nước ngày càng kiệt quệ và tụt hậu.
Không khỏi giật mình khi nhìn vào các chỉ số kinh tế cơ bản.
Hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc “chết lâm sàng”. Thâm hụt ngân sách tới
mức báo động. Nợ xấu và nợ công chồng chất. Các khoản vay World Bank để ứng phó
thay đổi khí hậu, phát triển đồng bằng Mekong, và nâng cao năng lực cạnh tranh,
như muối bỏ bể.
Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016, dự trữ ngoại
hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 30 tỷ USD, đến tháng 6/2016 tăng lên 38 tỷ USD.
Theo Bộ Tài chính Mỹ, Việt Nam nắm giữ 12 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ (chiếm
1/3 dự trữ ngoại hối), do đó dự trữ tiền mặt chỉ có 26 tỷ USD. Năm 2015, Việt
Nam phải trả nợ 20 tỷ USD và năm 2016 ít nhất là 12 tỷ USD (trả nợ nước ngoài
chiếm 40%). Năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc là 30 tỷ USD (nhập chính thức) và
20 tỷ USD (nhập lậu). Nếu Trung Quốc muốn, họ có thể làm cho dự trữ ngoại hối của
Việt Nam (30 tỷ USD) bốc hơi trong một ngày.
Chỉ cần quan sát kỹ một chút là thấy bức tranh quốc gia đầy
bất ổn, cả về sức khỏe kinh tế lẫn ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia.
Cách đây 26 năm, cựu Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã bức xúc thốt lên rằng một
thời kỳ Bắc thuộc mới bắt đầu. Những hệ quả của Thành Đô vẫn dai dẳng như một
nghiệp chướng, chưa biết bao giờ thoát Trung.
Mấy năm qua, tai họa môi trường xảy ra liên tiếp. Không phải
chỉ do ông trời làm thay đổi khí hậu, mà còn do con người gây ra. Trong khi hạn
hán và ngập mặn chưa từng có trong lịch sử tại đồng bằng Mekong đe dọa cuộc sống
hàng triệu nông dân, vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu, thì thảm họa môi trường biển
miền Trung do Formosa gây ra đang hủy diệt hải sản và môi sinh, đe dọa cuộc sống
hàng vạn ngư dân và cộng đồng. Không phải chỉ có ngành hải sản và du lịch biển
bị tê liệt, mà chủ quyền Biển Đông có nguy cơ bị mất.
Tại sao ta lại từ chối đề nghị giúp đỡ của cộng đồng quốc tế
(như Liên Hợp Quốc và Mỹ)? Tại sao phạt Formosa có 500 triệu USD để đền bù thiệt
hại (và cho tồn tại)? Tại sao lại phải nhẹ tay “khoan hồng” đối với thủ phạm đã
và đang gây ra thảm họa môi trường miền Trung? Trong khi lại nặng tay đàn áp
người dân biểu tình ôn hòa đòi “biển sạch” và “minh bạch”? Và bưng bít thông
tin bằng cách kiểm duyệt và đe nẹt báo chí? Tại sao Chính phủ và các cơ quan chức
năng phải mất gần 3 tháng mới công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa
môi trường (trong khi hầu như ai cũng biết thủ phạm là Formosa)?
Thật là nghịch lý nếu ta phải cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ khi
đồng bằng sông Mekong bị hạn (do họ xây quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn)
và khi máy bay Su 30MK và CASA 212 bị rơi liên tiếp ngoài khơi Biển Đông (một
cách bí ẩn). Tại sao ta lại sợ Trung Quốc như vậy? Trong khi Philippines dám kiện
(và đã thắng), nhiều nước ủng hộ phán quyết của PCA, thì Việt Nam vẫn giữ thái
độ rất dè dặt, không dám kiện.
Nguyên nhân và hệ quả
Thứ nhất là nỗi sợ đi vào tiềm thức. Đó là nguyên nhân sâu
xa gây chia rẽ, hận thù, nghi ngờ, dối trá, không thể hòa giải (như những chỉ số
năng lượng tiêu cực). Người Việt vốn sợ Tây, sợ Tàu, sợ tất cả, nên căm thù và
đánh tất. Nhưng khi phải quyết định lựa chọn kế thoát hiểm, thì lại sợ thay đổi
thể chế, nên mắc kẹt tại ngã ba đường. Dân sợ và không tin chính quyền. Chính
quyền sợ dân (coi dân như thù địch), vì sợ mất ghế, mất chế độ, mất độc quyền,
nên phải bưng bít thông tin và trấn áp. Làm sao thoát khỏi nỗi sợ?
Trung Quốc không đáng sợ như vậy, và họ đang suy yếu. Về đối
ngoại Trung Quốc ngày càng bị cô lập, nhất là sau phán quyết của PCA về Biển
Đông. Về đối nội, kinh tế xuống dốc, uy tín của Đảng cầm quyền suy giảm. Theo một
báo cáo của Ủy ban Kỷ luật Trung ương (1/7/2016) chỉ có 2,2% đảng viên đạt tiêu
chuẩn, và 90% bộ máy cầm quyền của Đảng phải cải tổ, vì “đã mục nát triệt để”.
Các lãnh đạo cao nhất của Đảng (như Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã công khai
thừa nhận chế độ Cộng sản Trung Quốc đang đứng trước “nguy cơ vong Đảng” và đã
đến “điểm giới hạn gần như sụp đổ” (theo Vương Kỳ Sơn).
Thứ hai là tư tưởng cực đoan ẩn tàng trong cộng đồng, nhất
là các quan tham muốn “làm giàu bằng mọi giá”, nên thường bỏ qua và quên mọi rủi
ro tiềm ẩn (do vô minh). Tư tưởng cực đoan dẫn đến “hội chứng nhất” (cái gì
cũng phải nhất). Ví dụ, Hà Tĩnh có dự án to nhất (Formosa), tốc độ duyệt dự án
này cũng nhanh nhất, và có số cán bộ tham gia Trung ương cũng đông nhất (16 người).
Nay xảy ra thảm họa môi trường cũng lớn nhất.
Có thể nói, đó là hệ quả của cực đoan và bè phái, là hai trở
ngại lớn nhất đối với quá trình đổi mới và phát triển. Các nhóm lợi ích thân hữu
(bán nước hại dân) có thể làm đất nước trệch khỏi đường ray phát triển, và tiếp
tục mắc kẹt tại ngã ba đường. Phải chăng nhóm lợi ích thân hữu lũng đoạn Hà
Tĩnh đã biến Formosa Vũng Áng thành một tô giới Tàu, hay “vương quốc nước ngoài
trong lòng Hà Tĩnh” (GDVN, 26/7/2016).
Thứ ba là khủng hoảng nhân cách (như đa nhân cách). Trong
khi các quan lại (địa phương và trung ương) làm giàu bất minh và gây ra tai họa,
thì họ luôn mồm “vì quê hương đất nước”. Khi đã mất nhân cách thì họ thường vô
cảm, vô minh, và làm như “vô can” trước tai họa do họ gây ra. Vì vậy, ông Võ
Kim Cự mới tỏ ra “thực sự bất ngờ… không lường được” và thản nhiên phán “phải
kiên quyết xử lý đối với những vi phạm dù bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào” nhưng
lại khẳng định “ký giấy chứng nhận đầu tư là đúng luật và đúng quy trình…”.
Điệp khúc “đúng quy trình” là một cách ngụy biện thô thiển đến
phản cảm, mà những kẻ đạo đức giả và mất nhân cách hay sử dụng để qua mặt những
ai nhẹ dạ cả tin. Làm “đúng quy trình” mà không cần biết quy trình đúng hay sai
và hậu quả ra sao, là một trò lừa đảo mà những nhóm lợi ích (bán nước hại dân)
hay dùng để thao túng luật lệ trong một thể chế bất minh có nhiều kẻ hở. Họ tìm
đủ cách lý giải và đổ cho quy trình và kỹ thuật (chứ không phải do con người),
đổ lỗi cho người khác (chứ không phải do mình).
Vì vậy, sau khi xảy ra tai họa thì ông Cự làm như vô can, rồi
lý giải như “lấy thúng úp voi” (lời ông Phạm Quyết Thắng, nguyên Phó Tổng Thanh
tra Chính phủ). Ông Thắng bức xúc hỏi, “ông là người trình xin Thủ tướng cho
phép dự án có thời hạn 70 năm hay trình dự án 50 năm mà Thủ tướng chữa lại
thành 70 năm?... Tôi không loại trừ trong quá trình quan hệ đó có lý do nể
nang, quen biết, cảm tình, và có cả vấn đề lợi ích cá nhân… Ông Cự chủ động,
tích cực làm việc này, nhưng chắc chắn phải có người hậu thuẫn, bật đèn xanh
cho ông ấy. ”
Formosa: Phần nổi của tảng băng chìm
Đại dự án Formosa như “con ngựa thành Troy” đã gây ra thảm họa
môi trường và đẩy đất nước vào một cuộc khủng hoảng với những hệ quả khôn lường,
liên quan đến phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh quốc phòng. Nó xẩy
ra đúng lúc chuyển giao quyền lực giữa Chính phủ cũ (đã “ăn không từ cái gì”)
và Chính phủ mới (còn “chưa ấm chỗ”), nên đối phó bị động và lúng túng như “gà
mắc tóc” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Hãy điểm lại mấy nét chính của câu chuyện Formosa, với những
lỗ hổng lớn về quản lý nhà nước và giám sát an toàn môi trường. Không thể đổi mới
thể chế, nếu không làm rõ và xử lý thích đáng vụ Formosa như một “case study”
mà cả ba chỉ số cơ bản của mô hình cải cách đều thiếu hụt: (1) chống tham nhũng
(corruption), (2) quản trị tốt (governance), (3) minh bạch & trách nhiệm giải
trình (transparency & accountability).
Điều phi lý nhất là sau khi để xảy ra một thảm họa môi trường
lớn như vậy, và sau khi Formosa (nhà đầu tư) đã nhận tội, phía chủ nhà vẫn im lặng
như vô can, vì làm “đúng quy trình”, mà không hề quan tâm quy trình đó đúng hay
sai. Nếu ông Cự (nguyên Chủ tịch/Bí thư Hà Tĩnh) và những quan chức liên đới
trong Chính phủ cũ và các bộ ngành (TN&MT, KH&ĐT, KH&CN,
NN&PTNT…) mà vô can, thì ai là bị can đây?
Ông Cự đúng là người có “công đầu”, đưa đường chỉ lối cho
Formosa vào đầu tư tại Vũng Áng và Sơn Dương (một vị trí chiến lược tại Miền
Trung), nhưng không phải chỉ có một mình. Nếu ông Cự (và cộng sự) không biết
Formosa nổi tiếng hủy diệt môi trường, và đằng sau Formosa là Trung Quốc, thì
là vô minh. Ông Cự (và cộng sự) còn tìm mọi cách lách luật (hay phạm luật) để
đáp ứng các yêu cầu tối đa của FHS (chủ đầu tư Đài Loan) và MCC (nhà thầu Trung
Quốc), là bất minh (chứ không phải “bất ngờ”).
Ông Cự đầy tự tin và tự hào về “đứa con” Formosa sẽ “làm cho
Hà Tĩnh và đất nước này thay đổi cơ bản… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
Hà Tĩnh và khu vực… đây là dự án chủ lực của Hà Tĩnh. Nếu đi vào hoạt động, dự
án sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Riêng tiền thu được từ thuế cũng lên đến hàng chục
tỷ USD. Ngoài ra, còn tạo ra hàng ngàn việc làm cả trong và ngoài hàng rào nhà
máy… Khi đi vào hoạt động, 12 huyện thị của Hà Tĩnh sẽ trở thành khu hậu cần
cho dự án. Hơn nữa, dự án sẽ tạo ra cú hích để cấu trúc lại kinh tế cho nhiều
thế hệ. Đây là cơ hội tốt để người dân Hà Tĩnh đổi đời” (Tiền Phong,
10/4/2014).
Nay “cháy nhà ra mặt chuột”, ông Cự có muốn người dân Hà
Tĩnh “đổi đời” bằng cách bỏ ngư trường Biển Đông (cho Trung Quốc)? Sự vô minh
và bất minh của ông Cự (và cộng sự) khác gì bán nước hại dân. Nhưng đến nay ông
Cự vẫn khẳng định “tôi làm đúng, khi thẩm định dự án đều có ý kiến của 12 bộ
ngành… sau đó báo cáo Chính phủ và được Chính phủ đồng ý…”. Theo báo Tuổi Trẻ,
ngày 9/4/2008 ông Cự ký văn bản số 858/UBND-CN2 gửi Formosa nêu rõ thời hạn cho
thuê đất là 70 năm. Tới ngày 8/5/2008, Hà Tĩnh mới có công văn gửi các bộ ngành
xin ý kiến. Theo Thanh tra Chính phủ, ý kiến các bộ ngành không đề nghị Chính
phủ cho phép thời hạn 70 năm, và tại thời điểm đó Chính phủ cũng chưa có ý kiến
cho phép thời hạn trên 50 năm. Nếu đúng vậy thì ông Cự phạm tội nói dối, và đổ
lỗi quanh.
Trước khi FHS đầu tư vào Khu Kinh tế Vũng Áng làm nhà máy
thép Formosa và cảng biển Sơn Dương, thì Tata Group, một tập đoàn lớn có kinh
nghiệm sản xuất thép hơn 100 năm của Ấn Độ cũng quyết định đầu tư vào Vũng Áng.
Nhưng vì ông Cự đã chọn FHS nên Tata đành bỏ cuộc. Trả lời phỏng vấn báo Tiền
Phong, ông Cự giải thích, “Đúng là Tata vào trước, đáng ra Tata phải được ưu
tiên, nhưng do họ triển khai quá chậm nên Formosa đã chớp lấy cơ hội!”. Phải
chăng Formosa nhanh chân hơn Tata, hay lại quả nhiều hơn, nên ông Cự cũng “chớp
lấy cơ hội” bất chấp rủi ro tiềm ẩn về môi trường và an ninh?
Không biết ông Cự vì quê hương đất nước hay vì “lợi ích cá
nhân” (như lời ông Quyết Thắng), mà bất chấp luật lệ và dư luận xã hội, cho
Formosa hưởng quá nhiều ưu đãi (như một tô giới). Buông lỏng quản lý và giám
sát đã dẫn đến thảm họa môi trường (“đúng quy trình”). Đó là quy trình gì? Làm
bậy “đúng quy trình” rồi đổ lỗi để chạy tội là một đặc thù văn hóa tham nhũng
kiểu Việt Nam (tham nhũng “đi vào ổn định”). Đó là quy trình siêu tốc đối với một
đại dự án, khi hai bên câu kết trở thành đồng minh về lợi ích, thao túng luật lệ.
Nếu Formosa đã từng thao túng Chính quyền Quốc Dân Đảng tại Đài Loan thì nay (với
MCC) họ thừa sức thao túng những quan tham trong chính quyền Hà Tĩnh (và Hà Nội).
Báo cáo đầu tư của Formosa lập trong 3 ngày (thật kỷ lục!).
Quá trình thẩm định và phê duyệt dự án của UBND Tỉnh làm trong 1 tháng. Ngày
9/4/2016, ông Cự (lúc đó là Phó Chủ tịch Tỉnh) ký văn bản số 858/UBND-CN2 xác
nhận ưu đãi đầu tư cho Formosa thuê đất 70 năm. Chỉ 2 tháng sau (12/6/2008) ông
Cự đã ký giấy phép đầu tư, và chỉ 18 ngày sau (30/6/2008) Bộ TN&MT đã phê
duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM).
Theo nhà báo Lan Anh (VTC) người đã phỏng vấn ông Chu Xuân
Phàm với câu nói nổi tiếng “chọn cá hay thép” (25/4/2016), chỉ 3 ngày sau
(28/4) ông Phan Tấn Linh (Giám đốc Sở TT&TT Hà Tĩnh) đã gửi công văn cho
các cơ quan chức năng, đề nghị xử lý VTC vì đã phát nội dung cuộc phỏng vấn. Tại
sao ông Linh lại mẫn cán gửi công văn bênh vực Formosa và chĩa mũi nhọn vào báo
chí? (tuy báo chí làm đúng chức năng). Lý giải hành động mẫn cán của ông Linh,
nhà báo Lan Anh gọi đó là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”.
Trong khi cá chết hàng loạt thì ông Đặng Ngọc Sơn (Phó Chủ tịch
UBND) khuyên dân cứ ăn cá và tắm biển (như không có chuyện gì). Hôm đó chắc
không phải là “ngày cá tháng Tư” và cá chết không phải là chuyện đùa. Còn ông Đặng
Quốc Khánh (Chủ tịch UBND) thì vẫn yên lặng một cách bí ẩn, chưa hề xuất hiện
và lên tiếng (tuy 3 tháng đã trôi qua).
Đến nay, một số nhà thầu phụ Hà Tĩnh vẫn đang tiếp tay cho
Formosa gây ô nhiễm môi trường bằng cách bí mật di chuyển hàng ngàn tấn rác thải
các loại đi chôn trộm tại nhiều nơi (như công viên, khu dân cư) tại Kỳ Anh, Hà
tĩnh, và chở hàng trăm tấn chất thải nguy hiểm ra chôn trộm tại Phú Thọ. Nếu bị
phát hiện thì họ đổ lỗi quanh, và cho người hành hung báo chí. Phải chăng vì đồng
tiền nên họ “đâm lao phải theo lao”? Nhưng điều đáng nói là một số quan lại địa
phương vẫn vô cảm và vô can trước thảm họa môi trường (mà họ là đồng phạm). Một
quan nhỏ như Phan Duy Vĩnh (Phó Chủ tịch thị xã Kỳ Anh) mà cũng dám coi thường
công chúng khi viết trên Facebook, “Biển nhiễm chất độc từ cái mồm của các bạn.”
Tiến sỹ Tô Văn Trường (một chuyên gia về môi trường) cho biết
ông “không khỏi giật mình vì sự tắc trách và trình độ chuyên môn của những người
có trách nhiệm phía Việt Nam trong công tác kiểm tra, và giám sát môi trường…
Khuyết điểm lớn nhất không phải là cấp giấy phép xả thải hay báo cáo ĐTM mà
chính là lỗ hổng về công tác kiểm tra, giám sát về môi trường của Bộ TN&MT
và Sở TN&MT Hà Tĩnh… Một số người phụ trách về môi trường chẳng những làm
ngơ, mà còn nhận làm thuê, đổ chất thải của Formosa không đúng quy định… Chỉ có
một nguyên nhân là họ tham tiền và đã bị Formosa móc ngoặc”. (BVN, 27/7/2016).
Ông Trường còn đặt nghi vấn là ngoài chất độc đã được phát
hiện là phenol, cyanua mà thủ phạm là Formosa, liệu còn chất độc nào khác chưa
bị lôi ra ánh sáng? Một số người vẫn tin là phải có một lượng độc tố khác ngoài
phenol và cyanua, được thải vào biển. Theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang (Basam.info,
28/7/2016), kết quả phân tích mẫu cá chết của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam đã xác nhận cá chết vì ammonia. “Mọi bằng chứng khoa học về nguyên
nhân cá chết hàng loạt tại miền Trung đều hướng về phía ammonia chứa trong nước
thải xả từ nhà máy luyện than coke của Formosa”.
ĐBQH Trần Quốc Khánh cho rằng, “Formosa là bài học cảnh tỉnh
cho những ai có tư duy bất chấp tất cả để chạy theo lợi ích, kể cả lợi ích cá
nhân và lợi ích địa phương… Cần phải xử lý nghiêm khắc những sai phạm tại
Formosa, kể cả xử lý hình sự”. ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cũng nói, “Tôi ủng hộ
quan điểm nên thành lập Ủy ban Lâm thời để xem xét, điều tra các vấn đề môi trường
nổi cộm. Trước mắt là tập trung vào trường hợp Formosa… Đã đến lúc phải rà soát
lại tất cả các quy trình để xem có đủ sức ngăn chặn được những tiêu cực của những
người có trách nhiệm xây dựng cũng như là phê chuẩn những quy trình đó hay
không”.
Ông Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ)
khẳng định. “lần này theo chỉ đạo của Trung ương, khi xem xét khuyết điểm của
cán bộ thì không hề có bất cứ vùng cấm nào, bất luận người đó đương chức hay đã
về hưu, ngay cả đương chức thì dù ở bất cứ chức vụ nào cũng phải bị xem xét… Về
xử lý nội bộ, Đảng không phân biệt một ai, kể cả là đã về hưu nhiều năm nhưng nếu
có liên quan đến những sai phạm trong thời kỳ công tác thì cũng không có chuyện
“hạ cánh an toàn”. Chúng ta hãy chờ xem!
Phải nhắc lại câu chuyện Formosa bởi vì đó là phần nổi của tảng
băng chìm. Nó lý giải một phần tại sao Việt Nam vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường.
Ông Trịnh Xuân Thanh, ông Vũ Huy Hoàng, và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường đã “lên
thớt” (theo chỉ đạo của TBT) trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” (kiểu Việt
Nam). Trận “Núi Pháo” cũng đã mở màn. Nhưng chưa biết bao giờ đến lượt ông Võ
Kim Cự (và cộng sự)? Đến nay ông Cự vẫn vô can, vẫn là đại biểu Quốc hội và Chủ
tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Việc ông Cự “lên thớt” hay hạ cánh an toàn
là thước đo lập trường của Việt Nam đối với câu chuyện Formosa và Biển Đông
(sau phán quyết của PCA), và đổi mới thể chế (như khuyến nghị trong báo cáo “Việt
Nam 2035”).
Miến Điện & Mông Cổ: Bài học chuyển đổi
Trong mấy thập kỷ qua, nhiều nước đã chuyển đổi thể chế
chính trị từ độc tài thành dân chủ. Trong đó, Miến Điện và Mông Cổ là hai bài học
thành công, đáng để cho Việt Nam tham khảo và học hỏi. Tất nhiên, bối cảnh lịch
sử mỗi nước một khác, với những đặc thù kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc
cũng khác nhau, nhưng đây là hai câu chuyện chuyển đổi thành công bằng đường lối
ôn hòa và không bạo lực.
Trong khi Trung Quốc và Việt Nam đổi mới kinh tế khá thành
công (với các mức độ khác nhau), nhưng không đổi mới chính trị, nên đất nước
đang gặp rắc rối. Việc tham khảo các mô hình chuyển đổi như Miến Điện và Mông Cổ
là cần thiết, để đổi mới thể chế, nhằm giải phóng và phát huy những tiềm năng của
đất nước.
Người ta đã nói nhiều về Miến Điện như một bài học chuyển đổi
mà Việt Nam cần tham khảo. Những người dẫn dắt quá trình chuyển đổi ôn hòa tại
Miến Điện đã thành công vì họ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích riêng. Ông
Then Sein (Cựu Tổng thống) và bà Aung San Suu Kyu (lãnh tụ Đảng Liên minh Quốc
gia vì Dân chủ NLD) đã thay đổi lịch sử Miến Điện bằng hòa giải dân tộc, chuyển
đổi nền độc tài quân sự thành thể chế dân chủ. Nhưng họ mới đi được nửa đường.
Nhiều người cho rằng Miến Điện đang có dấu hiệu bất ổn,
vì bà Aung San Suu Kyi đã khẳng định “ở trên Tổng thống” (trong vai trò
“cố vấn nhà nước”). Người ta lo rằng hành động này làm xói mòn nền
dân chủ mà chính bà chủ trương. Một số người lên án Đảng NLD của bà
đang lạc vào chủ nghĩa độc đoán. David Matieson (một chuyên gia về nhân quyền)
nhận xét, “Văn hóa trong Đảng rất không minh bạch và độc đoán… Nhiều
đảng viên bị khoá miệng không được nói… Họ đang thật sự cố gắng để
giữ kỉ luật đảng ở mức độ phi dân chủ.”
Trong khi đó, những người khác cho rằng bà Suu Kyi cũng
chỉ là con người, và là một chính khách. Để làm một chính khách khác với đoạt
giải Nobel, và hoạt động dân chủ. Không nên nhầm lẫn. Trong một cuộc phỏng
vấn với CNN, bà Suu Kyi nói, “Tôi đã là một chính khách từ lâu… Tôi
khởi đầu làm chính trị không phải như một người bảo vệ nhân quyền,
hay một nhà hoạt động nhân đạo, mà là lãnh tụ của một đảng chính
trị. Nếu đó không phải là chính khách thì tôi không hiểu thế nào
mới là chính khách”.
Đây là những vật vã trong quá trình phát triển (growing
pains), chứ không phải bế tắc tại ngã ba đường. Miến Điện đã thoát khỏi ngã ba
đường và đang trên con đường dân chủ hóa và kiến tạo đất nước. Khó khăn, thử
thách còn nhiều. Bà Suu Kyi không chỉ là một “ngọn đèn hi vọng” (như lời Tổng
thống Barack Obama), mà là một Tổng thống (de facto).
Bên cạnh bài học Miến Điện, bài học Mông Cổ cũng đáng suy ngẫm.
Một nước nghèo, lạc hậu, dân số ít, bị kìm kẹp giữa hai nước láng giềng khồng lồ,
đã trỗi dậy và chuyển đổi ngoạn mục. Trong suốt bảy thập kỷ, Mông Cổ chưa hề biết
đến tự do và dân chủ, bị chìm đắm trong bóng đen của nền độc tài. Nhưng người
Mông Cổ đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, đồng hành với tự do dân chủ để tiến
bước về phía tương lai của dân tộc.
Tsakhiagiin Elbegdorj (sinh 1963), là lãnh tụ của Phong trào
dân chủ Mông Cổ, được ca ngợi như là Thomas Jefferson của Mông Cổ. Khi từ
Moscow trở về nước (năm 1989), hành trang của anh sinh viên 26 tuổi này không
phải là tài liệu sách vở về CNXH học được tại Trường Đảng Moscow mà là những
thay đổi từ chính sách Glasnost của Gorbachev. (Theo Trần Trung Đạo, “Dân cần
minh bạch”, Danlambao.vn, 21/5/2016).
Elbegdorj tin rằng chỉ có dân chủ mới cứu được Mông Cổ.
Trong bài phát biểu (28/11/1989), Elbegdorj đã nhấn mạnh, “Mông Cổ cần dân chủ
và minh bạch…” Mông Cổ phải chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ bằng một cuộc
cách mạng bất bạo động.
Cuộc biểu tình tuyệt thực đầu tiên ngày 10/12/1989 chỉ có 13
“tên phản động” (do Elbegdorj cầm đầu). Ngày nay người Mông Cổ gọi họ một cách
kính trọng là “13 nhà dân chủ Mông Cổ đầu tiên”. Cuộc cách mạng dân chủ không
làm rơi một giọt máu nào là do hầu hết 2.1 triệu dân Mông Cổ dứt khoát đoạn tuyệt
với quá khứ, trong số đó có Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Jambyn Batmönkh. Năm
1998, khi cách mạng thành công, Elbegdorj được bầu làm Thủ tướng, và năm 2009
ông được bầu làm Tổng thống Cộng hòa Mông Cổ.
Elbegdorj đã biến điều không thể thành có thể. Về đối nội,
Mông Cổ từ bỏ chính sách “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” theo mô hình Liên Xô
cũ, và áp dụng chiến lược “hai chọn một”. Về đối ngoại, từ 1994, Mông Cổ theo
phương châm “ngoại giao trong thế cân bằng về khoảng cách”. Từ cuối thập niên
1990, Mông Cổ thực hiện chính sách “láng giềng thứ ba”, và đến năm 2015, đề xuất
ý tưởng “nước trung lập vĩnh viễn”. Mông Cổ đã từng bước phá thế kìm kẹp địa
chính trị để tạo ra bước nhảy vọt, mở rộng không gian sinh tồn cho mình.
Mông Cổ coi mối quan hệ cân bằng với Nga và Trung Quốc là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chính sách ngoại giao của mình. Tháng
8/2014, tại Ulan Bator, Mông Cổ và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về “xây dựng
và phát triển mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Đồng thời, ngoài Nga
và Trung Quốc, Mông Cổ đã phát triển quan hệ hợp tác với các nước lớn khác như
Mỹ, Nhật và Đức theo chính sách “láng giềng thứ ba”.
Vai trò của của Ulan Bator trong vấn đề hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên cũng như mở rộng đối thoại đa phương đã giúp Mông Cổ có vai trò quan
trọng trên thế giới. Mông Cổ đã dần trở thành cầu nối giữa Triều Tiên và các nước
Đông Bắc Á, và đã tận dụng ưu thế này để trở thành nước hòa giải giữa Triều
Tiên và Hàn Quốc. Mông Cổ đã đề xuất sáng kiến “Đối thoại Ulan Bator” nay trở
thành diễn đàn đa phương quan trọng, bên cạnh vòng đàm phán 6 bên do Bắc Kinh
khởi xướng. Khi Đàm phán 6 bên bị đình trệ thì “Đối thoại Ulan Bator” là kênh
đàm phán hiệu quả nhất giữa Bình Nhưỡng với thế giới.
Nói tóm lại, Mông Cổ đã dũng cảm và khôn ngoan chuyển đổi
thành công, mà vẫn giữ được độc lập chủ quyền, trong khi Việt Nam vẫn mắc kẹt tại
ngã ba đường.
Thay lời kết: Lối thoát nào cho Việt Nam
Trong lịch sử gần đây, không có một chính thể độc tài nào (kể
cả Miến Điện và Mông Cổ) lại tình nguyện từ bỏ độc quyền và độc tài, nếu không
có đủ sức ép đòi đổi mới. Mọi chuyển đổi (dù ôn hòa và bất bạo động) đều phải từ
dưới lên (bottom up), chứ không chỉ từ trên xuống (top down). Điều kiện thiết yếu
là phải dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, để đưa dân tộc tiến tới tự do dân chủ
(như Miến Điện và Mông Cổ).
Đặc điểm của những người không dám đoạn tuyệt với quá khứ là
họ chỉ phê bình hiện tượng, nhưng tránh nhắc đến bản chất, chỉ nói đến hệ quả
nhưng bỏ qua nguyên nhân, chỉ nói lên thực trạng xã hội mà không lý giải nguyên
nhân nào dẫn đến thực trạng đó. Có lẽ hầu hết là sản phẩm của ý thức hệ đã thấm
dần và ăn sâu vào tiềm thức thành thói quen tư duy. Họ thường hoài nghi những
thay đổi “không chính thống”, mà không hiểu rằng chế độ đã bị thao túng bởi các
nhóm lợi ích bất minh như tư bản đỏ và xã hội đen.
Bị ngộ độc bởi ý thức hệ cực đoan, lòng tin gần như vô thức
của nhiều người quen lệ thuộc vào cơ chế xin cho và ban phát. Nay dù ủng hộ tự
do dân chủ, nhưng tâm thức và thói quen tư duy của họ vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh
về cực đoan và bạo lực, là hệ quả của chiến tranh. Mọi thay đổi đều có quy luật
và phải trả giá. Đổi mới thể chế tại Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Phải từ
bỏ cực đoan và bạo lực. Không thể thay thế độc quyền này bằng độc quyền khác.
Muốn thoát Trung và thoát khỏi ngã ba đường, phải ra khỏi cái hang ý thức hệ.
Einstein đã từng nói, “không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư duy đã tạo ra
vấn đề đó”.
N.Q.D
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 29-7-16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét