Nguồn: “Why the first world war wasn’t really“, The
Economist, 01/07/2014
Thế giới – hay ít ra những quốc gia tham gia vào những sự kiện
ban đầu của cuộc Thế chiến I – gần đây đã thể hiện mối quan tâm lớn đối với cuộc
chiến tranh thế giới đầu tiên này. Sự khởi đầu gần như ngẫu nhiên của nó – khoảng
thời gian từ ngày 28/6/1914, khi người thừa kế ngai vàng của Áo-Hung bị ám sát
bởi một người Bosnia theo chủ nghĩa dân tộc, đến những ngày đầu tiên của tháng
Tám, khi Đức tuyên chiến với Nga và Pháp, kéo theo đồng minh của họ là Anh – đã
thu hút sự quan tâm tìm hiểu của các nhà sử học. Trong khi đó, những thảm kịch
sau đó đã thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, dù rằng theo một cách tương đối
khác. Nhưng liệu đó có phải là cuộc chiến tranh thế giới đầu tiên? Nó chắc chắn
là một cuộc chiến tranh thế giới. Nhưng nó chắc chắn không phải là cuộc chiến
tranh thế giới đầu tiên.
Danh hiệu đó thuộc về một cuộc chiến tranh nổ ra 160 năm trước
đó, vào năm 1754, và kéo dài cho đến năm 1763. Mặc dù chiến tranh đã không nổ
ra ở châu Âu cho mãi đến năm 1756, lý do mà cuộc xung đột này được gọi là Cuộc
chiến tranh Bảy năm, nhưng nó thực sự có quy mô toàn thế giới. Tất cả các châu
lục có người cư trú, ngoại trừ châu Úc, đều tận mắt chứng kiến chiến tranh trên
đất của mình, và các cường quốc độc lập trên ba trong số những châu lục này đều
là những bên tham chiến tích cực.
Hành động đầu tiên của cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên này
có liên quan đến một sĩ quan trẻ mà tên tuổi có thể rất quen thuộc với một số độc
giả. Vào ngày 28/5/1754, một nhóm nhỏ các binh lính từ thuộc địa Virginia của
Vương quốc Anh, dưới sự chỉ huy của một người đàn ông tên là George Washington,
đã giao chiến với một nhóm các binh sĩ người Pháp từ New France (tức Canada
ngày nay) xâm nhập vào khu vực mà Vương quốc Anh coi là lãnh thổ của họ. Thay
vì đẩy lùi họ một cách hòa bình như đã được chỉ thị, rốt cuộc Washington lại giết
chết nhiều người trong số đó, kể cả sĩ quan chỉ huy của họ.
Chiến dịch ở Bắc Mỹ này sau đó tiếp tục, với việc cả hai bên
cùng liên minh với các bộ tộc Anh-điêng (da đỏ) bản địa, cho đến hai năm sau
đó, khi đồng minh của Vương quốc Anh là Phổ tấn công một tiểu quốc Đức tên là
Saxony. Điều này kéo đồng minh của Saxony là nước Áo, và đồng minh của Áo là nước
Pháp (và do đó kẻ thù của Pháp và đồng minh của Phổ, nước Anh), vào cuộc xung đột.
Đó là một chuỗi các sự kiện giống một cách kỳ lạ với cách thức mà vào năm 1914
cuộc tấn công của Áo, đồng minh của Đức, vào một nước nhỏ là Serbia ở Balkan
(Ban-căng) đã kéo vào cuộc chiến đồng minh của Serbia là nước Nga, điều đe dọa
nước Đức, khiến quốc gia này tuyên chiến với cả Nga và đồng minh của Nga là
Pháp.
Cuộc chiến tranh nhanh chóng mở rộng quy mô ra toàn thế giới.
Cả Anh và Pháp tăng viện cho đội quân thuộc địa của họ ở Bắc Mỹ, và bắt đầu tấn
công các thuộc địa ở Tây Ấn và các trạm giao thương của nhau tại châu Phi và Ấn
Độ. Tại Ấn Độ, một số các tiểu vương quốc vào thời điểm đó mới nổi lên sau khi
đế chế Mughal lụi tàn cũng đã tham chiến, và rốt cuộc Anh đã chiếm đóng một
trong số họ, đó là Bengal. Cuộc chiến đã lan đến Nam Mỹ khi vào gần thời điểm kết
thúc, Tây Ban Nha tham chiến cùng phe nước Pháp và tấn công một trong các thuộc
địa tại châu Mỹ của Bồ Đào Nha, một đồng minh của Anh.
Giống như Thế chiến I, cuộc xung đột toàn cầu này đã định
hình lại thế giới. Thật vậy, đó là lý do tại sao thế giới hiện đại là một thế
giới nói tiếng Anh. Vai trò cường quốc thực dân của Pháp đã bị phá hủy, và Pháp
đã thật sự không thể quay trở lại công cuộc chinh phục ở nước ngoài cho đến khi
nước này tấn công Algeria vào năm 1830. Toàn bộ khu vực Bắc Mỹ nằm về phía đông
sông Mississippi đã trở thành thuộc địa của Anh, ngoại trừ New Orleans trở
thành thuộc địa của Tây Ban Nha. Và nền tảng cho sự cai trị của nước Anh ở Ấn Độ
cũng đã được thiết lập.
Về phần George Washington, cuối cùng ông trở thành người
lãnh đạo một đội quân cách mạng được tập hợp bởi người dân các thuộc địa Bắc Mỹ,
vốn không còn lo sợ về sự bao vây của Pháp, không muốn chi trả cho cuộc chiến vốn
đã mang lại cho họ sự tự do, và thất vọng bởi Anh không thể bảo vệ các vùng đất
của các đồng minh người Anh-điêng của họ khỏi sự xâm lấn của các nhà đầu cơ bất
động sản thực dân (bao gồm cả chính bản thân Washington), nên họ đã quyết định
sẽ đấu tranh giành độc lập (khỏi Anh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét