Stratfor, ngày 26/5/2016
Người dịch: Vũ Quốc Ngữ
(VNTB) - Trên tất cả, Washington
muốn tiếp cận nhiều hơn tới vịnh Cam Ranh và cảng chiến lược khác trên Biển
Đông.
Trên tất cả, Washington muốn tiếp cận nhiều hơn tới vịnh Cam Ranh
Với việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ
khí và chuyển giao công nghệ quân sự cho Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ đặt nền móng cho sự
hợp tác hải quân rộng hơn, hiện thực hóa một phần khiêm tốn nhưng quan trọng của
chiến lược rộng lớn hơn trong khu vực.
Động thái này cũng có thể cầu cạnh các nhà lãnh đạo cứng rắn Việt Nam tại
thời điểm chuyển đổi quyền lực chính trị tại Hà Nội.
Phân tích
Chỉ hơn 41 năm sau khi Việt Nam
đánh bại Hoa Kỳ và các đồng minh của mình, Nhà Trắng đang tiến tới việc bỏ qua
một dấu tích của chính sách thời Chiến tranh Lạnh để đạt được nhu cầu về chiến
lược. Vào ngày 23/5, trong khi đứng bên dưới một bức tượng bán thân của lãnh tụ
cách mạng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố rằng
Washington sẽ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí và công nghệ quân sự đối với Việt Nam,
một lệnh cấm đã được áp dụng khá lâu.
Việt Nam là nước đơn lẻ nhưng
quan trọng trong tranh chấp trên Biển Đông, vì vậy Washington quan tâm để giúp
đất nước phát triển để có khả năng chống lại sự bành trướng của Trung Quốc.
Nhưng việc dỡ bỏ lệnh cấm này sẽ không làm thay đổi đáng kể tình hình an ninh
trong khu vực. Giá vũ khí và công nghệ đắt và chia rẽ chính trị ở Hà Nội sẽ kiềm
chế mong muốn sở hữu của Việt Nam đối với các loại vũ khí hiện đại của Hoa Kỳ,
và nước này sẽ tiếp tục dựa vào các đối tác quân sự truyền thống. Tuy nhiên,
quyết định này sẽ giảm bớt những nghi ngờ về ý định của Hoa Kỳ đối với Việt Nam
và đặt nền móng cho quan hệ quân sự chặt chẽ hơn, hỗ trợ chiến lược rộng lớn
hơn của Washington trong khu vực.
Tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam
Quan hệ giữa Washington và Hà Nội
đã dần được cải thiện kể từ khi hai nước nối lại quan hệ ngoại giao vào năm
1995, phần lớn là vì tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam trong khu vực Tây
Thái Bình Dương. Việt Nam là một trong những đối thủ mạnh mẽ nhất của tuyên bố
chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, và sẵn sàng chống lại tuyên bố trên. Quan
điểm này được hình thành bởi sự quan trọng của các hoạt động hàng hải đối với nền
kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc và Việt Nam có một lịch sử tranh chấp
lãnh thổ lâu dài, bao gồm cuộc chiến biên giới ngắn ngủi vào năm 1979, cuộc
giao tranh hải quân năm 1988 trên quần đảo Trường Sa, và đối đầu ngoại giao khi
Trung Quốc đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam năm 2014.
Kết quả là, Việt Nam là một những
nước có chi tiêu quân sự cao nhất trong Đông Nam Á. Hà Nội dành gần 8% ngân
sách năm 2015 của mình cho quốc phòng và dự kiến sẽ chi tiêu hơn 5 tỷ USD
trong năm nay (tăng khoảng 1 tỷ USD so với thập kỷ trước). Mặc dù vậy, số tiền
này không là gì khi so sánh với con số ước tính 215 tỷ USD mà Bắc Kinh chi cho
quốc phòng năm ngoái. Nguồn lực tài chính hạn hẹp và tiềm năng quân sự thua kém
của Việt Nam không cho phép nước này đối đầu với Trung Quốc trong chiến tranh hải
quân kéo dài.
Washington không ảo tưởng trong
việc biến Việt Nam thành nước có tiềm năng quân sự ngang hàng với Trung Quốc,
cũng không nghĩ rằng Hà Nội muốn liên minh với Washington nhu liên minh giữa Mỹ
với Nhật Bản và Hàn Quốc. Thay vào đó, Hoa Kỳ muốn giúp đỡ Việt Nam để nước này
mạnh hơn và có thể bảo vệ chủ quyền và tăng cường hợp tác với các nước láng giềng,
như nội hàm của Sáng kiến an ninh hàng hải Đông Nam Á của Lầu Năm Góc. Việc
loại bỏ cấm vận vũ khí đối với Việt Nam chỉ là một bước đi mới nhất trong nhiều
bước mà Hoa Kỳ đã và đang làm để khuyến khích và trang bị cho các nước trong
khu vực để chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Mặc dù Hoa Kỳ nhiều lần từ chối đề
nghị dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí trong quá khứ của Hà Nội (với lý do bề ngoài là
hồ sơ nhân quyền xấu), Washington đã từng bước loại bỏ rào cản trong hợp tác
quân sự với Việt Nam. Trong năm 2007, Hoa Kỳ sửa đổi lệnh cấm, cho phép bán các
thiết bị và dịch vụ quân sự không gây sát thương cho Việt Nam trên cơ sở từng
trường hợp cụ thể. Trong năm 2014, Washington đã bắt đầu cho phép chuyển giao một
số vũ khí sát thương và công nghệ giám sát hàng hải hiện đại cho lực lượng hải
quân Việt Nam. Kể từ đó, Hoa Kỳ đã thực hiện những cam kết khiêm tốn với Việt
Nam, cung cấp nhiều tàu tuần tra với tổng trị giá 18 triệu USD và khoảng 40 triệu
USD cho Việt Nam để giúp nước này tăng cường khả năng tình báo, giám sát và
trinh sát hàng hải.
Cuộc chơi của Hoa Kỳ đã muộn
Việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán
vũ khí của Hoa Kỳ đối với Việt Nam sẽ không thay đổi căn bản cân bằng quân sự
trong khu vực. Một phần bởi vì các nước khác đã đáp ứng phần lớn nhu cầu quân sự
của Việt Nam.
Nga, nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ
hai thế giới, đã và đang cung cấp phần lớn vũ khí và trang thiết bị quân sự cho
Việt Nam kể từ thời Liên Xô. Nga có ít lợi ích trực tiếp ở Biển Đông so với
Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hà Nội, có lịch sử cảnh giác với các liên minh mạnh mẽ
bên ngoài, xem Moscow như một đối tác an
ninh lý tưởng. (Vì lý do tương tự, Thái Lan và Lào vừa ký thỏa thuận quân sự với
Nga.) Những vũ khí và thiết bị đáng chú ý mà Việt Nam mua từ Nga bao gồm máy
bay chiến đấu, tàu hộ tống tên lửa dẫn đường, và các hệ thống phòng thủ bờ biển
và tên lửa chống tàu di động. Trong tháng 12 năm 2015, Hà Nội đã vận hành tầu
ngầm hạng Kilo đầu tiên trong số sáu tàu ngầm do Nga sản xuất để tuần tra Biển
Đông, và nước này nhận tàu ngầm thứ năm trong tháng Giêng. Hồi đầu tháng này,
Nga tuyên bố sẽ cung cấp thêm hai tàu khu trục lớp Gepard cho Việt Nam trong
tháng 8 và tháng 9. Nhiều công ty của Nga cũng đang giúp Việt Nam hiện đại hóa
cảng nước sâu chiến lược tại vịnh Cam Ranh.
Vai trò của Nga trong kế hoạch quốc
phòng của Việt Nam sẽ không giảm trong thời gian tới. Tuy nhiên, Hà Nội đang muốn
đa dạng hóa các nhà cung cấp vũ khí cho mình. Ấn Độ, ngoài việc cho vay mua tàu
tuần tra và huấn luyện tàu ngầm, đang xây dựng một trạm mặt đất cho các vệ tinh
của nó ở Việt Nam, giúp Việt Nam thúc đẩy
giám sát hàng hải ở Biển Đông. Việt Nam cũng được cho là đang đàm phán mua nhiều
hệ thống pháo binh của Pháp, tên lửa chống máy bay của Israel, và máy bay giám
sát từ Canada, cùng nhiều thiết bị quân sự khác của nước ngoài. Những nhà cung
cấp đó hoặc cung cấp mức giá thấp hơn Hoa Kỳ, hoặc họ cho Việt Nam khả năng cắt
giảm chi phí trong tương lai bằng cách giúp nước này phát triển ngành vũ khí bản
địa. Ví dụ, Việt Nam đã sản xuất vũ khí hạng nhẹ theo bản quyền của Israel.
Mong muốn hạn chế đối với vũ khí Mỹ
Tuy nhiên, quân đội Việt Nam quan
tâm đến việc mua vũ khí hiện đại của Hoa Kỳ. Việt Nam nhiệt tình trong việc vận
động Mỹ loại bỏ cấm vận, và Hà Nội đã tổ chức một hội thảo chuyên đề cho các
nhà thầu quốc phòng của Hoa Kỳ vào đầu tháng 5. Đặc biệt, Hà Nội được cho là
đang quan tâm đến máy bay trực thăng của Hoa Kỳ, thiết bị thông tin liên lạc,
và thậm chí có thể máy bay chiến đấu F-16.
Mối quan hệ với các nhà thầu Mỹ sẽ
cải thiện vị thế mặc cả của Việt Nam với các nhà cung cấp truyền thống của nó.
Hơn nữa, sự quen thuộc với hệ thống của Hoa Kỳ tạo sẽ tạo điều kiện nâng cao khả
năng tương tác với các quân đội khác ở Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines,
Malaysia và Singapore, những nước mà Hà Nội mong muốn thúc đẩy hợp tác hàng hải.
Trong khi các thiết bị rẻ hơn của Nga hỗ trợ lực lượng mặt đất và không quân của
Việt Nam, Hà Nội có thể tin rằng thiết bị quân sự hiện đại của Washington rất cần
thiết cho chiến tranh chống tàu ngầm với yêu cầu cao trong công tác tình báo,
giám sát và trinh sát. Cuối cùng, Việt Nam được cho là đang để mắt tới nhiều loại
máy bay trinh sát trên không do Hoa Kỳ chế tạo, như P-3 Orions.
Nhưng bất chấp sự tăng cường quân
sự, Việt Nam không ở vị thế để có thể mua các thiết bị quân sự hiện đại. Trong
năm 2015, tổng sản phẩm quốc nội của nước này chỉ dưới 200 tỷ USD, ngang hàng với
một tỉnh nghèo của Trung Quốc. Một máy bay chiến đấu F-35 của Hoa Kỳ có thể có
mức giá 100 triệu USD. Thật vậy, kể từ khi Washington nới lỏng lệnh cấm vũ khí
trong năm 2014, Việt Nam chưa mua bất kỳ thiết bị nào của Mỹ, chủ yếu là vì lo
ngại chi phí cao. Trong khi đó, sự phụ thuộc gần như hoàn toàn của Việt Nam vào
thiết bị của Nga sẽ làm phức tạp việc sử dụng các công nghệ do Hoa Kỳ chế tạo,
những loại thiết bị đòi hỏi quân đội phải bảo trì, đào tạo và các hoạt động chuỗi
cung ứng và đặt ra thách thức khả năng tương tác giữa các hệ thống vũ khí khác
nhau của nó.
Lợi ích rộng lớn hơn
Tuy nhiên, mong muốn của Việt Nam
trong việc mua vũ khí từ Hoa Kỳ, cho dù còn ở mức hạn chế, cung cấp bằng chứng
thực chất về vai trò kích động của Trung Quốc trong khu vực. Và mặc dù Việt Nam
có ngân sách giới hạn, việc dỡ bỏ lệnh cấm sẽ cho phép Hoa Kỳ cung cấp viện trợ
quân sự lớn hơn trong tương lai. Có lẽ quan trọng nhất, mỗi lần chuyển nhượng
vũ khí cùng với giao lưu liên kết trong đào tạo và bảo trì sẽ thúc đẩy sự hiểu
biết và tin cậy giữa quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam, qua đó mở đường cho mối quan
hệ mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Washington hy vọng động thái này
sẽ khuyến khích hợp tác quân sự trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như tập trận
hàng hải chung. Trong chuyến thăm của ông Obama, Việt Nam đồng ý cho phép Lầu
Năm Góc thiết lập các kho thiết bị trong quốc gia này cho các hoạt động cứu trợ
nhân đạo và đối phó thảm họa. Trên tất cả, Washington muốn tiếp cận nhiều hơn tới
vịnh Cam Ranh và cảng chiến lược khác trên Biển Đông. (Hải quân Hoa Kỳ được
phép chỉ có một chuyến thăm cảng Việt Nam mỗi năm, trong khi tàu của Nga đã từ
lâu được hưởng đặc quyền tiếp cận vịnh Cam Ranh.) Hà Nội sẽ không để cho bất cứ
nước nào thiết lập một căn cứ quân sự thường trú tại Việt Nam, nhưng nó đã dần
dần cho phép tàu chiến nước ngoài đến vịnh Cam Ranh cho nhiệm vụ huấn luyện và
tiếp tế. Nhật Bản, Singapore và Pháp đã tận dụng sự cho phép này trong năm nay.
Cuối cùng, mức độ hợp tác quân sự
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ phụ thuộc vào việc bãi bỏ cấm vận có tăng quyền cho các nhà lãnh đạo cứng
rắn ở Hà Nội, đặc biệt là những tướng lãnh quân đội, những người có vai trò
chính trị hùng mạnh. Đầu năm nay, sự
chuyển đổi quyền lực gây tranh cãi trong Đảng Cộng sản Việt Nam gây chia rẽ sâu
giữa những người lãnh đạo của Đảng về cách chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc
trong khu vực, và nhiều lãnh đạo cao cấp vẫn còn nghi ngờ ý định của Hoa Kỳ. Mặc
dù đảng Cộng sản đã ký vào Hiệp ước thương mại xuyên Thái Bình Dương được dẫn đầu
bởi Hoa Kỳ, nó thường xuyên cảnh báo rằng hội nhập với phương Tây - đặc biệt là
thông qua thương mại và đầu tư nước ngoài - có thể làm phát sinh một cuộc cách
mạng màu. Đảng tin rằng, để đảm bảo sự tồn tại của nó, nó phải duy trì kiểm
soát chặt chẽ tốc độ cải cách kinh tế và tự do hóa chính trị.
Đối với Washington, việc duy trì
lệnh cấm bán vũ khí như là đòn bẩy về nhân quyền sẽ làm sâu sắc thêm mối nghi
ngờ của Hà Nội trong khi hiệu quả của việc này rất nhỏ trong việc buộc Hà Nội
phải cải cách. Cho dù Hoa Kỳ nghiêm túc đòi hỏi vấn đề nhân quyền, thì cấm vận
đã làm giảm khả năng hợp tác về quân sự và kinh tế trong thời điểm quan trọng
khi Việt Nam có thế hệ lãnh đạo mới và bối cảnh chiến lược rộng lớn hơn.
https://www.stratfor.com/analysis/us-opens-its-arms-vietnam
Việt Nam Thời Báo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét