Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Nguồn: Barak Barfi, “Egypt for Sale”, Project Syndicate,
15/04/2016.
Trong chuyến thăm Ai Cập hồi tuần trước của Vua Ả Rập Saudi
Salman, hai nước đã ký kết 22 thỏa thuận, trong đó có một thỏa thuận dầu khí trị
giá 22 tỷ USD nhằm vực dậy nền kinh tế đang hấp hối của Ai Cập. Nhưng sự trợ
giúp hào phóng nào cũng có cái giá của nó: Ai Cập đã phải trả hai hòn đảo trên
Biển Đỏ mà Ả Rập Saudi đã nhượng lại cho nước này vào năm 1950. Động thái này
đã vạch trần luận điệu của giới lãnh đạo Ai Cập, rằng nước này vẫn là một cường
quốc khu vực, chỉ là một lời nói dối. Thật vậy, Ai Cập thậm chí còn không thể xử
lý được những thách thức trong nước, do dân số phát triển quá nhanh và phụ thuộc
vào nguồn trợ cấp mà chính phủ không có khả năng chi trả. Đây là tình thế mà
các phần tử thánh chiến đang khai thác khá thành công. Vậy làm thế nào mà Ai Cập
lại rơi vào hoàn cảnh này?
Khi Muhammad Ali đánh bại người Anh vào năm 1807, Ai Cập trở
thành quốc gia Ả Rập đầu tiên giành được độc lập trên thực tế (de facto). Nhưng
cháu trai của Ali, Ismail, đã phá tan nền độc lập ấy bởi lối chi tiêu vung tay
quá trán, để rồi đất nước phải phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, kéo dài cho đến
ngày nay.
Đầu tiên, vào năm 1875, Ismail đã buộc phải bán cổ phần của
Ai Cập trong kênh đào Suez để trang trải thâm hụt ngân sách. Nhưng điều đó
không đủ để ngăn chặn chảy máu ngân sách, và các chủ nợ châu Âu đã thành lập một
ủy ban để đảm bảo thanh toán. Tính đến năm 1877, hơn 60% nguồn thu ngân sách của
Ai Cập đã phải dùng để chi trả món nợ này. Năm 1882, người Anh đã nắm quyền kiểm
soát đất nước để bảo vệ các khoản đầu tư của họ.
Ai Cập tiếp tục phụ thuộc vào Anh cho đến khi Gamal
Abdel-Nasser lên nắm quyền vào năm 1952. Ông ta đã quay sang Liên Xô, nước cung
cấp các loại vũ khí tiên tiến, để đổi lấy cùng loại “giấy nợ” vốn đã làm hại những
người tiền nhiệm của mình. Đến khi Nasser qua đời vào năm 1970, Hải quân Liên
Xô đã gần như biến cảng Alexandria thành một nước Cộng hòa Xô Viết, nơi mà tiếng
Nga đã trở thành ngôn ngữ thứ hai.
Trong khi đó, Nasser lại theo đuổi các chính sách kinh tế
dân túy tốn kém. Ông mở rộng bộ máy quan liêu khi cho tất cả các cử nhân đại học
vào làm việc “ngồi không ăn lương” cho chính phủ; ngày nay, 24% lực lượng lao động
Ai Cập đang làm việc cho nhà nước. Ông cũng cho tiến hành trợ cấp hàng hóa cơ bản,
từ bánh mì đến dầu, lên tới 8,1% GDP trong năm 2013-2014. Trong năm 2014-2015,
81% ngân sách được dùng chi trả nợ, trợ cấp và tiền lương, lấn át giáo dục và
các khoản đầu tư khác cần thiết cho tăng trưởng dài hạn.
Tất cả những điều này làm gia tăng nhu cầu nhận viện trợ nước
ngoài của Ai Cập. Và, trên thực tế, dù Nasser thân Liên Xô, Mỹ mới là nước viện
trợ nhiều nhất cho Ai Cập, mãi cho đến cuộc chiến thảm khốc của nước này với
Israel vào năm 1967 khiến quan hệ Mỹ – Ai Cập bị đóng băng. Không thể đánh bại
Israel về mặt quân sự, phi công Liên Xô đã hỗ trợ kẻ thù của Israel (Ai Cập)
trong những trận không chiến trên kênh đào Suez. Nasser, người chống lại chủ
nghĩa đế quốc và sự phụ thuộc kinh tế, cuối cùng lại biến đất nước mình trở
thành chư hầu.
Người kế nhiệm Nasser, Anwar Sadat, đã cố gắng làm hồi sinh
Ai Cập thông qua tự do hóa nền kinh tế, làm hòa với Israel, từ bỏ liên minh với
Liên Xô và quay sang ủng hộ Mỹ và Tây Âu. Nhờ vậy mà ông nhận được một gói viện
trợ trị giá trung bình hơn 2 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, với tốc độ gia tăng dân số
hằng năm là 2,2% thì gói viện trợ này vẫn chưa đủ cho Ai Cập.
Ngày nay, Ai Cập còn phụ thuộc vào viện trợ từ châu Âu và
vùng Vịnh Ba Tư, chẳng hạn như qua Quỹ Phát triển Kinh tế và Xã hội Ả Rập, Quỹ
Phát triển Abu Dhabi và Quỹ Phát triển Saudi. Quỹ Kuwait cho Phát triển Kinh tế
Ả Rập đã viện trợ cho Ai Cập 2,5 tỷ USD, với hơn 50% trong số đó là viện trợ
không hoàn lại, khiến Ai Cập trở thành nước nhận viện trợ lớn nhất của quỹ này.
Các khoản viện trợ này hỗ trợ cho nền kinh tế Ai Cập bằng cách tài trợ các dự
án cơ sở hạ tầng và cứu trợ ngân sách. Việc các khoản nợ đôi khi được xóa cũng
giúp ích tương tự.
Người Ai Cập hiếm khi nghe về tình hình tài chính eo hẹp của
đất nước họ. Thay vào đó, giới báo chí do chính phủ kiểm soát thường chỉ tự hào
về những cây cầu mới và việc gia tăng sản lượng công nghiệp, đồng thời nêu bật
vai trò của Ai Cập trong các vấn đề khu vực, chẳng hạn như tiến trình hòa bình
Israel-Palestine [vốn đang trì trệ] hay việc giúp hình thành chính phủ liên hiệp
ở Lebanon.
Việc tuyên truyền như vậy là nhằm mục đích duy trì niềm tin
rằng Ai Cập vẫn giữ vị thế quan trọng ở Trung Đông. Chắc chắn là không giống hầu
hết các nước Ả Rập khác, đặc biệt là Lebanon và Yemen, người Ai Cập có nhận thức
về bản sắc dân tộc bắt nguồn từ các đế chế của các vị Pharaon thời cổ đại. Thêm
nữa, dân số gần như đồng nhất của nước này – 90% người Hồi giáo dòng Sunni – đã
cho phép Ai Cập tránh được những xung đột giáo phái như ở Iraq và Syria, và xây
dựng một chính quyền trung ương mạnh.
Nhưng luận điều về cường quốc khu vực mà các nhà lãnh đạo Ai
Cập hay nói tới đang ngày càng xa vời. 750.000 sinh viên Ai Cập tốt nghiệp mỗi
năm đều muốn có việc làm, chứ không phải những lời hứa suông dựa trên vinh
quang quá khứ. Những lao động không có tay nghề trong ngành du lịch đang suy
tàn thì mòn mỏi đợi chờ du khách nước ngoài quay lại. Các công nhân nhà máy
khao khát mức sản xuất mà sức mua của những người tiêu dùng địa phương đang thất
nghiệp không thể duy trì.
Thay vì giải quyết những vấn đề trên, Tổng thống Ai Cập
Abdel Fattah el-Sisi đã buộc phải từ bỏ lãnh thổ cho Ả Rập Saudi nhằm đảm bảo
có được nguồn viện trợ nước này cần để duy trì đất nước, và ông đã phải đối mặt
với rất nhiều những nhạo báng trong quá trình này. Tuy nhiên, trong trò chơi có
tổng bằng không mang tên “chính trị Trung Đông”, thất bại của một bên sẽ là chiến
thắng của một bên khác. Và trong trường hợp của Ai Cập ngày nay, các nhóm Hồi
giáo cực đoan đang gặt hái những phần thưởng khi người dân “vỡ mộng” về chính
phủ.
Các phần tử Hồi giáo cực đoan cũng có lập luận riêng của họ:
rằng Ai Cập hiện nay đã không thể đáp ứng được kỳ vọng của người Ả Rập và Hồi
giáo. Điều này nhận được sự đồng cảm của những người dân đang phải chịu đựng sự
thất bại của nhà nước hàng ngày. Tập trung khôi phục quá khứ vinh quang của người
Hồi giáo đang ngày càng trở nên hấp dẫn hơn so với việc hồi sinh một cường quốc
khu vực mà thậm chí còn chẳng thể bảo đảm được quyền lợi cho người Palestine.
Các nhà lãnh đạo Ai Cập vẫn duy trì được tính chính danh và
sức mạnh cần thiết để ngăn chặn lập luận nguy hiểm này. Nhưng, nếu muốn thành
công, họ sẽ phải thừa nhận thực tế của Ai Cập. Ai Cập là một đất nước mà lịch sử
cổ xưa luôn được xem trọng, nhưng huyền thoại về cường quốc khu vực là một
trong những vết tích sẽ sớm biến mất.
***
Barak Barfi hiện là nghiên cứu viên tại Viện New America.
http://nghiencuuquocte.org/2016/04/29/bi-kich-doi-dat-lay-vien-tro-cua-ai-cap
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét