Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

Nông dân Việt Nam đối mặt nguy cơ mất kế sinh nhai cuối cùng




Tại nhiều vùng quê Việt Nam vẫn còn cảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau.” (Hình: Getty Images)

Chưa có mấy cơ sở để tin rằng chủ trương “Tập trung tích tụ đất đai” của đảng cầm quyền, nếu được thành hình, sẽ tăng năng suất lao động và làm cho nông dân đỡ khốn khổ hơn. Thậm chí ngược lại, một tai họa mới, còn ghê gớm hơn cả phong trào thu hồi đất triển khai 800 khu chế xuất, khu công nghiệp và khu đô thị mới trong một phần tư thế kỷ qua, đang lừng lững đe dọa và có thể kiến người nông dân Việt Nam mất đi mảnh đất ở và kế sinh nhai cuối cùng.

“Tay không bắt giặc”


“Tập trung tích tụ đất đai” là một ý tưởng mới phát sinh ít lâu sau đại hội 12 của đảng cầm quyền, nhằm “tạo điều kiện cho hộ nông dân, hợp tác xã tăng quy mô, tăng năng suất lao động,” được Bộ Chính trị Việt Nam gật đầu và giao cho Ban Kinh Tế Trung Ương của cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình chủ trì nghiên cứu.

Nguyễn Văn Bình lại là nhân vật mà vào năm 2011 từng vừa nổi tiếng vừa tai tiếng với luận thuyết “tay không bắt giặc” và “lấy mỡ nó rán nó” nhằm mưu đồ thu gom vàng từ dân.

Sau nghiên cứu ban đầu của Ban Kinh Tế Trung Ương, chính phủ đã chỉ đạo xây dựng đề án về vấn đề này và giao Bộ Tài Nguyên Môi Trường thực hiện.

Quả bóng đã được chuyền sang chân… Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc – nhân vật đang có hệ số rủi ro chính trị cao nhất bởi trách nhiệm phải “đổ vỏ” cho đời thủ tướng cũ, cùng đủ thứ “đòn dưới thắt lưng” trong thì hiện tại.

Về mặt quan điểm, “Tập trung tích tụ đất đai” không phải là ý dở trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam bị phân tán và yếu ớt năng suất cùng sức cạnh tranh quốc tế. Quy mô sản xuất nông nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu là hộ nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ lạc hậu, giá trị gia tăng thấp. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp chậm phát triển, thiếu liên kết, còn xa mới đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại.

Đặc biệt, năm 2016 lần đầu tiên tăng trưởng ngành nông nghiệp ở mức âm trong sáu tháng đầu năm và cả năm tăng trưởng chỉ 1.2% – mức thấp nhất. Tình trạng này lồng trong bầu không khí u ám của “GDP vẫn tăng trưởng hơn 6% hàng năm” và ngày càng nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất đi quốc tế bị trả về vì chất lượng thấp, còn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng chính quyền các địa phương thì gần như bỏ mặc nông dân tự phát “trồng cây gì, nuôi con gì” mà không có quy hoạch và cũng chẳng có nổi một dự báo sát thực nào về thị trường đầu ra lẫn kế hoạch bảo hộ và trợ giá cho nông dân nếu làm ăn thất bát.

Nếu trước đây đứng thứ hai thế giới về xuất gạo, thị trường này của Việt Nam đang mất dần. Hai tháng đầu năm 2017 phải nhập siêu, thay vì xuất siêu như cùng kỳ các năm trước, đã phát đi một tín hiệu thực sự xấu.

Trong hoàn cảnh Hiệp Định TPP gần như tan vỡ, còn Hiệp Định Tự Do Thương Mại EU – Việt Nam (EVFTA) vẫn giậm chân tại chỗ, Bộ Chính Trị đảng không còn cách nào khác đành phải tìm cách “tháo hạn điền” cho nông dân.

Chính sách hạn điền là hạn chế diện tích đất canh tác, đã được thực hiện từ rất lâu theo nguyên tắc “sở hữu đất đai toàn dân.” Nhưng chính sách này bị rất nhiều chỉ trích vì không những không cho phép người nông dân mở rộng sản xuất trên diện tích lớn với các phương tiện khoa học kỹ thuật tiên tiến, mà còn tạo điều kiện cho việc trưng dụng đất đai trái phép của các viên chức nhà nước cấu kết với các công ty tư nhân, núp dưới danh nghĩa thu hồi đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.

Theo qui định hiện nay, mỗi gia đình chỉ được phép có tối đa 3 héc ta để trồng cây ngắn hạn như lúa và hoa màu, 10 héc ta để trồng cây lâu năm ở đồng bằng và 30 héc ta ở miền núi. Còn theo dự định của chính phủ thì số đất đai mà nông dân dược phép canh tác sẽ cao gấp 10 lần hiện nay.

“Hốt cú chót” và bần cùng hóa

Trong khoảng năm năm qua, đã diễn ra một làn sóng nhẹ nhiều doanh nghiệp chuyển sang đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Từ năm 2016, như “đánh hơi” được chủ trương “Tập trung tích tụ đất đai” sắp được đảng khởi phát, một số doanh nghiệp chuyên kinh doanh bất động sản bắt đầu tính toán “nhảy” vào lĩnh vực nông nghiệp, bất chấp tỷ suất lợi nhuận trong lĩnh vực này luôn thuộc loại thấp trong số các ngành sản xuất và kinh doanh ở Việt Nam.

Dù chưa chính thức, “Tập trung tích tụ đất đai” bắt đầu bị soi mói lợi dụng, và nếu không được kiểm soát chặt chẽ, vô hình trung chủ trương này có thể tiếp tay cho hành vi “lấy của người nghèo chia cho người giàu.”

Hãy nhớ, tương tự như xã hội Trung Quốc, khoảng 70% triệu phú và tỷ phú đô la ở Việt Nam có xuất thân “đi lên từ đất.”

Hậu quả ghê gớm có thể nhìn thấy trước là chủ trương “Tập trung tích tụ đất đai” nếu không được kiểm soát và chế tài trong quá trình triển khai, đặc biệt về việc doanh nghiệp phải triển khai đúng công năng đối với đất nông nghiệp, tất sẽ phát sinh tràn lan tình trạng nhiều doanh nghiệp lợi dụng chủ trương này để cưỡng bức nông dân phải vào cơ chế “tập đoàn hóa” của họ như thời “kinh tế mới” ngay sau năm 1975, hoặc tồi tệ hơn là doanh nghiệp “tay không bắt giặc” khi cấu kết với chính quyền địa phương để cưỡng bức thu hồi đất của nông dân, biến những người đang sở hữu mảnh đất chôn rau cắt rốn và là kế sinh nhai duy nhất thành dân oan đất đai, sau đó chuyển công năng đất nông nghiệp thành đất đô thị để bán kiếm lời khủng.

“Triển vọng mất trắng” của nông dân là có thực. Một trong những phương án “hợp tác giữa doanh nghiệp và nông dân” mà chính quyền nêu ra là doanh nghiệp sẽ tổ chức canh tác trên đất của nông dân, còn nông dân sẽ biến thành “công nhân nông dân” làm thuê cho doanh nghiệp đó. Lẽ dĩ nhiên, mức thu nhập của nông dân được “vẽ” theo phương án này là không tệ (4-5 triệu đồng/người/tháng). Nhưng trong thực tế, đã có quá đủ kinh nhiệm xương máu về việc nhiều doanh nghiệp đã “từ tâm” đến thế nào để từ lợi dụng nông dân đến cướp đất của họ. Một khi đã lấy được đất của nông dân, không có gì bảo đảm là doanh nghiệp sẽ thuê nông dân làm công cho họ, mà nếu có thuê thì cũng chẳng có gì chắc chắn là nông dân sẽ được hưởng một mức lương đủ sống.

Việt Nam từ sau thời mở cửa kinh tế những năm 90 của thế kỷ 20 đã chứng kiến vô số cảnh lấy đất, cướp đất tàn bạo của nhiều doanh nghiệp và chính quyền địa phương.

Có hàng ngàn ví dụ trong một phần tư thế kỷ qua ở Việt Nam, kể từ thời điểm bắt đầu đường parabol hướng lên của thị trường bất động sản từ năm 1995 và kéo theo rất nhiều vụ thu hồi đất không thỏa đáng, trái pháp luật và sau này là bất chấp đạo lý đối với nông dân.

Cùng với cơ chế đền bù cho nông dân với giá chỉ bằng 1/10 đến 1/20 giá thị trường, rất nhiều khuôn mặt đại gia đã phất lên qua những con sóng bất động sản từ năm 1995 đến năm 2011. Cùng lúc, Việt Nam xuất hiện một giai tầng mới: hàng triệu nạn nhân liên quan đến chính sách thu hồi đất đai. Rất nhiều người trong số họ đã phải ròng rã khiếu kiện nhiều năm trời, tạo thành những đám đông biểu tình ghê gớm. Nhiều nạn nhân đã phải vào tù chế độ và trở thành tù nhân lương tâm.

Quá nhiều kẽ hở trong luật pháp và hoạt động “hành là chính” mà có thể tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp và chính quyền địa phương lợi dụng chủ trương “Tập trung tích tụ đất đai” để tập trung “hốt cú chót” trong buổi hoàng hôn chế độ.

Trong lúc Hiến Pháp năm 2013 chưa chịu công nhận sở hữu đất đai tư nhân mà vẫn giữ nguyên chế độ “sở hữu đất đai toàn dân” – về thực chất là cơ hội để các tập đoàn nhà nước chiếm đất, hàng triệu ha đất nông nghiệp của nông dân đang là miếng mồi cực kỳ màu mỡ dành cho những kẻ sinh ra làm giàu từ đất và cuối cùng cũng bị chôn vùi trong lòng đất.

Trong bối cảnh hỗn mang của chính trị và xã hội Việt Nam hiện thời, chẳng có gì bảo đảm là chủ trương “Tập trung tích tụ đất đai” nếu đưa vào thực hiện sẽ bảo đảm được tính chuẩn mực của nó. Thậm chí ngược lại, nhiều đại gia và quan chức sẽ xem đây là phi vụ kinh doanh bất động sản cực lớn để “lấy mỡ nó rán nó,” bỏ mặc một giai tầng hàng triệu dân đen ai oán và nổi lên chống đối chính quyền.


Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân

Tất cả những bất công trên đã tích tụ đủ dày để biến thành ý thức phản kháng của một bộ phận nông dân bị mất đất, biến họ thành dân oan và tạo nên mối xung khắc, dẫn tới xung đột với giới quan chức chính quyền tại nhiều địa phương. Vụ thu hồi đất hết sức bất công tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên năm 2012 mà hậu quả còn kéo dài đến nay là một bằng chứng điển hình.

Đặc thù tâm lý trong xã hội Việt Nam là lòng dân càng bất mãn thì phản ứng của người dân càng lúc càng trở nên thiếu kiềm chế. Trong một số vụ việc mấy năm gần đây, đã xuất hiện dấu hiệu vượt khỏi tâm lý kiềm tỏa sợ hãi để bước đến tâm trạng phản kháng, thậm chí sẵn sàng đối đầu, cho dù đó chỉ là hành động đối kháng tự phát chứ không được tổ chức. Có thể nêu ra hàng loạt vụ việc người dân phản ứng về đất đai ở nhiều địa phương như Nam Định, Bắc Giang, Hưng Yên, Nghệ An… và ngay tại ngoại thành Hà Nội, rất gần với tổng hành dinh của chính phủ và Bộ Chính Trị đảng. Những người dân như Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng năm 2012 và Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình năm 2013 nổi lên chống đối chính quyền chính là điển hình cho lòng phẫn uất đã biến thành tự phát vô cảm đến mức bất chấp của dân oan, đối diện với thói vô lương tâm của giới quan chức địa phương.

“Tập trung tích tụ đất đai” đang được đá vào chân của Thủ Tướng Phúc và các bộ ngành chính phủ. Nếu chủ trương này bị biến thành công cụ của những kẻ “tay không bắt giặc” thì sẽ không chỉ là tai họa xã hội mà còn là một nguy cơ chính trị khủng khiếp đối với chế độ theo cách “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét