Tô Văn Trường
Tính pháp lý của dự án
Siêu
dự án này do Công ty TNHH Xuân Thiện thuộc Tập đoàn kinh tế Xuân Thành
đề xuất. Tháng 12/2015 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giao Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải và các bộ, ngành, địa
phương liên quan tổ chức thẩm định hồ sơ dự án, lập báo cáo thẩm định
và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương đầu tư dự
án trên theo quy định của pháp luật.
Theo báo
cáo của nhà đầu tư thì dự án này sẽ thực hiện việc xây dựng 6 đập dâng
nước và âu tàu, nạo vét 288km luồng sông Hồng đoạn từ Việt Trì lên Lào
Cai đạt tiêu chuẩn sông cấp III; kết hợp xây dựng 6 nhà máy thủy điện
nhỏ (cấp II), kiểu tuabin trục ngang cột nước thấp với tổng công suất
thiết kế khoảng 228MW; xây dựng 7 cảng dọc tuyến từ Hà Nội lên tới Lào
Cai, với tổng mức đầu tư ước tính lên tới 24.510 tỷ đồng. Bài toán kinh
tế hòan vốn còn rất mơ hồ nhưng chủ đầu tư đòi hỏi nhiều quyền ưu tiên
như bán điện với giá cao, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp tới thời kỳ
hoàn thành vốn vv…
Một điều quan trọng đầu tiên
cần lưu ý là “dự án” khủng tỉ đô này không nằm trong các quy hoạch rất
quan trọng như quy hoạch khai thác thủy điện, quy hoạch trị thủy nguồn
nước (quy hoạch thủy lợi, quy hoạch phòng chống lũ…). Ngay cả quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội cũng chưa xem xét ý tưởng này.
Nhận thức chung
Theo
ý tưởng của công ty đề xuất, đây là dự án “siêu thủy lộ” là chính, còn
“phát điện” chỉ là mục đích phụ. Lợi ích chính của dự án này được xác
định từ thu phí giao thông thủy (thông qua các âu tầu qua đập và hệ
thống cảng sông được xây dựng dọc sông Hồng). Còn về thủy điện chỉ khai
thác được tổng công suất 228MW thì không mang lại lợi ích đáng kể. Người
đọc nhân thấy khía cạnh tích cực của dự án chính là đoạn sông Thao từ
Lào Cai đến Việt Trì khá dốc, dòng chảy trong mùa kiệt nhỏ nên tình hình
vận tải thủy trên sông Thao hiện nay là không ổn định, chỉ các tàu có
quy mô nhỏ có thể vận hành. Việc cải tạo sông Thao sẽ tăng cường khả
năng vận tải thủy ở đoạn sông này.
Xét về thủy
thế, đoạn sông Hồng từ Việt Trì lên đến Lào Cai (cửa khẩu Cốc Lếu) có độ
dốc khá lớn, chưa kể địa hình đồi núi phía bên tỉnh Vân Nam còn có độ
dốc lớn hơn. Như vậy việc vận hành các âu thuyền qua đập sẽ khó khăn và
mất nhiều thời gian hơn, tàu ngược dòng sông cần công suất lớn. Thực tế
những năm gần đây, vấn đề hạ thấp mực nước ở hạ lưu sông Hồng, sông Thái
Bình đã được ghi nhận, có những năm vào mùa kiệt đoạn sông Hồng qua Hà
nội cạn gần trơ đáy. Bên sông Đuống (trục chính nối sông Hồng và sông
Thái Bình) cũng có sự hạ thấp đáng kể. Như vậy, để tàu thuyền (tàu công
suất lớn) qua lại được như ý tưởng của công ty Xuân Thiện thì cần phải
có thêm nhiều đập điều tiết nữa trên tuyến đường thủy này mới ra được
đến các cảng biển của Việt Nam.
Với 6 con đập,
dòng sông Hồng đương nhiên bị chia cắt thành 7 khúc và giao thông đường
thủy sẽ không thể thông suốt. Các phương tiện thủy sẽ chỉ có thể vận
chuyển từng chặng ngắn và buộc phải sử dụng hệ thống 7 cảng sông dọc
tuyến như phương án của nhà đầu tư. Không những thế, dự án này còn được
đầu tư theo hình thức BOO (xây dựng, sở hữu, vận hành) tức là sẽ không
có thời hạn, nhà đầu tư có thể thu phí vĩnh viễn đối với luồng tuyến,
đồng nghĩa với việc sở hữu hoàn toàn dòng sông Hồng. Ẩn khuất lợi ích to
lớn cho riêng nhà đầu tư chưa được nêu ra chính là nguồn khai thác cát
khổng lồ do nạo vét sông.
Xét về mặt chính trị,
có thể nói trục giao thông với mục đích chính là nối liền Trung Quốc với
các cảng biển của Việt Nam sẽ dễ bị Trung Quốc chi phối. Bởi nguồn nước
và sự giao lưu về thương mại đều phụ thuộc vào Trung Quốc. Mà bài học
trước nay trong quan hệ với Trung Quốc cho thấy chúng ta luôn bị động,
nhất là khi nguồn nước sông Hồng chảy vào Việt Nam do họ điều tiết phần
lớn trên dòng chính. Trong khi hiện nay các đập Trung Quốc quy chế vận
hành như thế nào, họ không cho phía VN được biết.
Điều
gì sẽ xảy ra, khi dòng sông mẹ của cả một dân tộc, nguồn phù sa cho
toàn bộ vùng châu thổ màu mỡ nhất miền Bắc trở thành sở hữu riêng của
một doanh nghiệp? Có lẽ đó là một viễn cảnh khó lòng tưởng tượng đối với
số phận của hàng chục triệu con người đang mưu sinh trên bờ bãi, đồng
ruộng dọc theo 500km chiều dài con sông này.
Các tác hại dễ thấy
Đồng
bằng sông Cửu Long đã mặn chát vì thủy điện của Trung Quốc ở thượng lưu
sông Mekong. Tây Nguyên cũng đã cạn khô do hiện tượng El Nino và thủy
điện. Đồng bằng châu thổ sông Hồng sẽ ra sao khi bị chia thành 7 khúc
cũng vì thủy điện?
Nguồn nước qua các đập dâng
không thể điều tiết chủ động như từ các hồ chứa lớn (như trên sông Đà,
sông Lô-sông Gâm) nên tác dụng điều tiết nước tích cực là không nhiều.
Trong khi với mục đích khai thác phục vụ giao thông (đảm bảo đầu nước
nhất định) thì có nhiều khả năng nguồn nước xuống hạ du còn bị ảnh hưởng
theo hướng tiêu cực, đặc biệt trong mùa cạn. Việc các đập dâng đầu nước
tưới cho vùng từ Việt Trì trở lên không có nhiều ý nghĩa, vì vùng này
diện tích đất nông nghiệp không nhiều, địa thế lại dốc nên lấy nước từ
sông Hồng chủ yếu vẫn phải bằng bơm động lực.
Việc
xây dựng các đập dọc sông Thao sẽ làm dâng mực nước đoạn từ Yên Bái đến
Lào Cai trong điều kiện bình thường bình quân khoảng 11m trong phương
án 3 bậc và khoảng 9m trong phương án 6 bậc, do đó cần có tính toán định
lượng các khu vực bị ngập úng dọc sông. Ngoài ra, việc dâng mực nước
trên sông sẽ làm giảm khả năng tiêu thoát nước của các khu vực dân cư,
khu vực canh tác ven sông. Ngập lụt vùng thượng lưu các đập, ảnh hưởng
hiệu quả tiêu thoát của các công trình tiêu nước vùng thượng lưu các
đập.
Việc xây dựng các đập dâng nước kết hợp âu
tàu sẽ làm giảm khả năng chuyển lũ và ảnh hưởng đến khả năng phòng chống
lũ của hệ thống sông Thao. Lòng sông Thao đoạn từ Việt Trì đến Lào Cai
có độ dốc lớn, việc nạo vét lòng sông sẽ gây sạt lở bờ sông, bãi sông và
các công trình đê điều, thủy lợi dọc sông. Sau khi đồng bằng sông Hồng
bị giảm đáng kể lượng phù sa từ hai nhánh sông Đà và sông Lô-Gâm thì nay
nhánh còn lại là sông Thao cũng sẽ bị chặn lại. Hậu quả là độ màu mỡ
của vựa lúa lớn thứ 2 của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn, trong khi lòng
sông sẽ có nguy cơ tiếp tục bị hạ thấp và xói lở mạnh hơn, càng làm giảm
khả năng của các công trình lấy nước dọc sông.
Dự
án sẽ tác động đến an toàn công trình thủy lợi, công trình phòng chống
thiên tai trên hệ thống sông Hồng-Thái Bình, đến tỉ lệ phân bổ lượng
dòng chảy lũ giữa hai phân lưu của dòng chính sông Hồng và tuyến sông
Đuống tác động đến toàn bộ hệ thống công trình phòng lũ vùng hạ lưu. Đấy
là chưa kể các tác động đến thủy sản và mực nước ngầm.
Tác
động của dự án đến môi trường, hệ sinh thái, lịch sử, văn hóa vốn tồn
tại hàng nghìn năm, và an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, không có
lợi ích nào bù đắp nổi. Nếu dự án này được Chính phủ cho phép đầu tư sẽ
biến dòng sông Hồng thành biến thái!
“Lỗ hổng” trong công tác thẩm định
Những
nhà khoa học am hiểu thực trạng của đất nước đều hiểu từ ngày xửa, ngày
xưa, các báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) thường mang tính
‘xào xáo’, hình thức để được phê duyệt. Nước ta, có rất nhiều công ty tư
vấn làm thuê báo cáo ĐTM cho các dự án của nước ngoài ở VN. Phía nước
ngoài, chỉ cần đưa qui trình công nghệ và mô tả xử lý theo cách của họ
để dễ được thông qua. Khi có sẵn các số liệu khí hậu, địa chất thủy văn
nơi xây dựng dự án, tư vấn VN biên tập thành báo cáo ngay, rồi tư vấn VN
cũng đi bảo vệ luôn cùng với chủ đầu tư.
Việc
này giống như làm luận chứng kinh tế kỹ thuật, muốn “Return Rate hay Net
Value” bao nhiêu là có thể làm được ngay vv... Hội đồng thẩm định gồm
nhiều nhà khoa học, thường nể nang do mối quan hệ xã hội, chưa nói đến
năng lực và bản lĩnh, nhiều khi không vượt lên được chính mình.
Đừng đối xử bất hiếu với mẹ của mình
Trong
lịch sử phát triển của mình, con người thường bám vào các dòng sông
hoặc cố gắng tìm đến các nguồn nước để sinh sống. Hầu hết mỗi quốc gia
đều có một “dòng sông mẹ”. Trung Quốc có sông Dương Tử, Nga có sông
Volga, Ấn Độ có sông Hằng, Brazil có sông Amazon vv… và Việt Nam chúng
ta có sông Hồng.
Chính sông Hồng là mạch nguồn
nuôi sống và tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt, là tiền đề vật chất nền
“văn minh lúa nước” rất đáng tự hào. Với ý nghĩa đó sông Hồng chính là
“dòng sông mẹ” của đất nước ta, dân tộc ta. Trên thế giới, không thiếu
những ví dụ về những khát vọng vơ vét làm giầu bằng mọi cách làm cho mờ
mắt đã khai thác, “bóc lột” đến triệt để dòng sông mẹ, bất chấp mọi hậu
quả, đặc biệt về môi trường sinh thái. Đừng để trở thành những đứa con
bất hiếu, bị muôn đời nguyền rủa vì đã đối xử vô ơn, bất hiếu với Mẹ của
mình!
Bài học đắt giá
Nhiều
quốc gia phát triển đang tìm cách khôi phục trạng thái trước kia của
các dòng sông lớn. Từ những năm 1990, Thụy Điển đã bắt đầu khởi động
chương trình tái tạo các dòng sông. Liên minh châu Âu vào năm 2000 đã
đưa ra chỉ định khung về nguồn nước, yêu cầu tất cả dòng sông chảy qua
các quốc gia thành viên cần phải được đưa trở về “tình trạng tốt” trước
năm 2015. Một trong những dòng sông lớn nhất Tây Ban Nha là Duero cũng
đang được “dọn dẹp” các đập và công trình chặn dòng. Các con đập trên
dòng Loire, con sông dài nhất nước Pháp, cũng được phá bỏ dần. Cửa sông
Skjern của Đan Mạch cũng được bồi đắp sau khi các bờ sông nhân tạo được
hạ thấp để dòng lũ chảy tự nhiên. Tại Mỹ đã có hơn 72 đập sông lớn nhỏ
được phá bỏ từ năm 2014 đến nay.
Riêng vấn đề
giao thông đường sông không đơn giản như những người làm dự án sông Hồng
mường tưởng. Xin hãy tham khảo giao thông đường sông trên các sông
Seine, Elbe, Rein... với hàng rừng luật và quy định của quốc gia và liên
quốc gia phải tuân thủ nghiêm ngặt... thì điều này là không tưởng đối
với sông Hồng. Cũng xin đừng quên nhiều nước công nghiêp châu Âu, trước
hết là Đức và Pháp đã mất nhiều thập kỷ trong nửa sau thế kỷ 20 mới phục
hồi được phần nào những con sông này ở trạng thái hiện nay. Là nước đi
sau, vấn đề giao thông của nước ta cũng phải xem lại nghiêm túc.
Hoạt
động của sông Hồng ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của đất nước, đến
môi sinh của toàn bộ miền Bắc, dòng chảy, hệ sinh thái trong dòng và bên
bờ sông, thủy lợi tiêu thoát lũ, đến đời sống của toàn bộ dân Bắc Bộ.
Vì thế, không thể để cho một công ty tư nhân, nhận BOO làm thay đổi hoạt
động của sông này, để rồi tất cả các qui hoạch thủy lợi, tiêu thoát lũ,
sử dụng nguồn nước mặt sông Hồng, phòng chống lũ, điện lực, giao thông
vận tải vv… với tầm nhìn tới 2030 hay 2035 sẽ phải “chạy theo” làm lại?
Tôi
cũng rất ngạc nhiên, nghe ông Vụ trưởng Vụ Thẩm định MPI nói trong cuộc
họp báo thường kỳ của Chính phủ chiều ngày 05/5 là: MPI nhận được ý
kiến đồng thuận khá cao của các bộ ngành và địa phương tuy đây mới là ý
tưởng sơ khai? Phải xem xét lại năng lực, và tầm nhìn của cán bộ tham
mưu loại ngồi “phòng lạnh” này, đối với lãnh đạo.
Thay cho lời kết
Đây
là dự án “lợi bất cập hại”. Lợi thì trước hết cho chủ đầu tư và các “cổ
đông” nhưng cái hại thì toàn dân phải gánh chịu. Một dự án tỷ đô hay
nhiều tỷ đô thì cũng không thể vượt qua hoặc bỏ quên quy hoạch tổng thể
hay quy hoạch ngành của Nhà nước.
Dự án càng lớn
thì tác động của nó đến các vấn đề kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng
và cả văn hóa lịch sử càng lớn. Sông Hồng ở Việt Nam, cũng như sông Hằng
ở Ấn Độ, sông Volga của Nga vv… là những con sông “mẹ”, là cội nguồn
sản sinh, nuôi dưỡng phát triển của cả một dân tộc, một quốc gia. Không
thể vì lợi ích của nhóm trục lợi, để làm mất đi hoặc biến thái “nền văn
minh sông Hồng”, và nền văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam.
T.V.T.
Tác giả gửi BVN.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét