Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bắt
tay bà Aung San Suu Kyi hôm 25 Tháng Tám. (Hình: TTXVN)
Tất cả đều cạn kiệt
“Triệt buộc” vẫn được những người
chơi cờ domino mặc định hạ bàn khi một bên bị ép vào thế không lối thoát.
Ngay cả cuộc khủng hoảng giá –
lương – tiền những năm 1985 – 1986 với biến động lạm phát lên đến gần 700% cũng
không thể khiến xã hội rơi vào cảnh hỗn loạn như hiện nay. Khi đó, Việt Nam vẫn
còn đầy ắp tài nguyên tự nhiên.
Ngay cả cơn biến động chính trị
khiến hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cùng Đông Âu tan rã, mà đã khơi dậy một
làn sóng đa nguyên đa đảng ở Việt Nam vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, cũng
không làm cho đảng CSVN lâm vào thế triệt buộc trong cơn bế tắc chính trị và
quay quắt tìm lối thoát chính trị như lúc này.
Lúc này đây, “tất cả đã bỏ ta mà
đi” – như một khúc ca từ buồn nẫu ruột, u ám cho cả chế độ lẫn dân chúng. Thành
tựu dẫn đến tiêu vong nhanh nhất là chế độ đã tự khai thác cạn kiệt “rừng vàng
biển bạc” chỉ trong vòng một phần tư thế kỷ tính từ thời điểm “Mở cửa kinh tế.”
Lối thoát chính trị của chính thể
Việt Nam, nếu chợt hiện ra ở cuối đường hầm, cũng đừng mơ màng có thể tái hiện
kinh nghiệm của nước Nga hậu Xô Viết và của Putin.
Hậu Xô Viết. Dù GDP bị giảm tới
60-70% trong khoảng 8 năm cầm quyền của Yelsin và đẩy nước Nga vào tình trạng hỗn
độn, quốc gia này vẫn còn gần như nguyên vẹn tài nguyên thiên nhiên mà luôn tạo
thành một hạ tầng cơ sở khá chắc chắn cho bất kỳ hệ thống cầm quyền nào biết tận
dụng điều đó. Trong vài chục năm qua, Putin đã phần nào biết tận dụng và do đó
đã biến nước Nga từ một thực thể khá hoang tàn trở nên cái mà người đời gọi là
“cường quốc.”
Còn Việt Nam thì sẽ trở thành cái
gì?
‘Tự hào đi lên, Việt Nam ơi!’
Muốn trở thành cái gì cũng được,
nhưng trước hết phải còn khả năng trả nợ, chưa nói đến chuyện trả hết nợ.
Nợ công quốc gia cao chưa từng
có: khoảng $431 tỷ, tính cả nợ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, lên tới
210% GDP chứ không phải “chưa đụng trần 65% GDP” như các báo cáo quá đỗi chán đời
của Chính phủ.
GDP lại chỉ giậm chân ở mức khoảng
$200 tỷ/năm mà không nhích lên được chút nào.
Khác xa với thành tích tăng trưởng
luôn đạt đến 6.5 – 7% GDP trong các báo cáo, tình hình kinh tế là bi đát, thật
sự bi đát. Từ năm 2008, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi vào cảnh suy thoái,
kéo đến tận năm 2017 mà vẫn chưa thấy gì gọi là “tương lai phục hồi.” Cái cảnh
phải cắm đầu trả nợ hàng năm bằng ngoại tệ mạnh, nhiều dấu hiệu ngân hàng nhà
nước có thể đã thi hành chính sách âm thầm in tiền với giá trị in thêm có thể
lên đến 500 ngàn tỷ đồng mỗi năm trong gần một chục năm qua, lạm phát thực tế
luôn có thể lên đến vài ba chục phần trăm chứ không phải “dưới 5%” như báo cáo,
tỷ lệ thất nghiệp cũng có thể chẳng kém thua Hy Lạp thời khủng hoảng kinh tế với
gần 30%… Trong khi đó, hầu hết các nguồn ngoại lực – từ cánh cửa cho vay của
ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng phát triển Á Châu, kể cả từ
Nhật Bản, kể cả nguồn kiều hối của “kiều bào ta” đều hoặc đang đóng hẳn lại, hoặc
giảm sút đến phân nửa…
Làm thế nào để trả nợ khi đảng đã
tự lao vào cơn tuyệt vọng của quốc nạn tham nhũng và “phá chưa từng có” thời
Nguyễn Tấn Dũng chỉ trong vòng chưa đầy chục năm?
Làm thế nào để tìm ra tiền trả
cho đội ngũ công chức viên chức gần 3 triệu người chỉ tăng không giảm mà có đến
30% trong số đó “không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương?”
Năm 2016 và 2017. Làm thế nào để
giảm mức bội chi ngân sách “dưới 5% GDP,” trong khi thực tế bội chi có thể lên
đến 9% GDP chứ không thấp hơn?
Bội chi đã đến thế, nhưng thu
ngân sách cũng từ thất vọng trở nên tắc nghẽn cho dù chính quyền đang quyết tâm
“thu cùng diệt tận” đối với dân chúng bằng quá nhiều sắc thuế. Năm 2017, tỷ lệ
hụt thu ngân sách so với dự toán đầu năm có thể thấp kỷ lục: 11% hoặc sâu hơn nữa.
Và làm thế nào để “triển vọng
phát triển còn tốt lắm” – như lời tuyên ngôn của Tổng Bí Thư đảng Nguyễn Phú Trọng
sau khi TPP gần như tan vỡ, để “đất nước đi tới không gì cản nổi” – như một thể
loại “tự sướng” từng ra rả vào thời chiến tranh, trong khi tình hình các FTA
(hiệp định thương mại tự do) với các nước vẫn rơi vào tình thế bất lợi.
Chỉ có hai FTA của Việt Nam với Mỹ
và Châu Âu là còn xuất siêu được – lần lượt là $25 tỷ và $20 tỷ mỗi năm. Còn thặng
dư xuất siêu với Nhật bằng 0, trong khi ngay cả Nam Hàn, tưởng là dễ chơi,
nhưng Việt Nam lại phải nhập siêu đến hai chục tỷ đô la vào năm 2016.
Còn với Trung Quốc thì khỏi nói:
con số nhập siêu chính ngạch lên đến $30 tỷ/năm, chưa kể phần tiểu ngạch khoảng
$20 tỷ nữa, tổng cộng đến $50 tỷ nhập siêu mỗi năm dành cho Việt Nam.
Vậy thì làm thế nào để “Tự hào đi
lên, Việt Nam ơi!”?
Triệt buộc
Tất cả đang đẩy nền kinh tế và xã
hội vào trạng thái còn lâu mới bình yên, một trạng thái động loạn hoặc gần gần
như thế.
Sau một thời gian dài bất động và
bàng quan trước phong trào đấu tranh dân chủ nhân quyền, rốt cuộc chính những
người dân phải gánh chịu nguy cơ bị chính quyền vét đến đồng cuối cùng trong
túi đã phải dấy lên phong trào “bất tuân dân sự.” Hình ảnh mang tính số đông đó
đang xảy ra ở những trạm thu phí BOT – nơi mà Bộ Giao Thông Vận Tải cùng các
nhóm lợi ích chỉ định thầu 100%, rút rỉa ngân sách và do đó rút rỉa tiền đóng
thuế của dân rồi ép dân è cổ đóng thuế tiếp.
Một nhân viên thu thuế lắc đầu:
“Cứ đà thu này thì chẳng mấy chốc dân sẽ bùng!”
“Bùng nổ” là từ dễ nghe và ngày
càng dễ thấy ở Việt Nam, nơi đất nước hình chữ S quặn siết trong tiếng gào thét
mam rợ của nạn cường hào ác bá ở hầu hết vùng miền.
Nội tình đã thế, ngoại trị chẳng
kém đau đớn hơn.
Triển vọng Bắc Kinh “kiến tạo” một
chiến dịch quân sự đối với Việt Nam, không chỉ trên Biển Đông mà có thể cả trên
bộ, đang lao đến với tốc độ khá nhanh, để có thể thực sự xảy ra vào năm 2018 hoặc
năm 2019. Bi kịch trở nên bi hài đến độ ngay cả vào tình thế ngân sách túng quẫn
và không biết tìm đâu ra ngoại tệ để trả nợ, Việt Nam có muốn khai thác dầu khí
trên vùng biển của mình, ở Bãi Tư Chính hoặc ngoài khơi Đà Nẵng, cũng bị “bạn
vàng” cấm cản và đẩy đuổi.
Chính sách “đu dây chiến lược” của
Việt Nam cũng bởi thế đã trở nên vô vọng đến mức thảm thiết. Làm thế nào để
thoát khỏi cái kiếp nạn Trung Quốc cả về nhập siêu, phá hoại kinh tế lẫn quân sự?
Trong vô vàn cái khó, lại ló
thêm… cái ngu. Năm Mười Bảy, “uy tín Việt Nam trên trường quốc tế” lao dốc chưa
từng thấy sau vụ mật vụ nước này bị người Đức cáo buộc đã bắt cóc Trịnh Xuân
Thanh ngay tại Berlin.
Cả thế giới phương Tây đang nhìn
vào Việt Nam, nhưng không còn tỏ ra ngưỡng mộ vì chiến tích “đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược” như trước đây, mà với ánh mắt miệt thị và cảnh giác tối đa. Việt
Nam không chỉ nằm trong danh sách đen về vi phạm nhân quyền mà còn là một tiểu
nhân quá khó chơi!
Khủng hoảng ngoại giao Đức – Việt
và tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược Đức – Việt của người Đức
mới chỉ là sự khởi đầu cho một cú lao dốc về vị thế chính trị quốc tế của Việt
Nam. Nếu vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào năm 2014 đã chứng minh rất rõ ràng việc
Việt Nam quá bạc nhược, lẻ loi và không được một bàn tay nào chìa ra giúp đỡ dù
có thủ trong túi chẵn một chục đối tác chiến lược, thì nay Việt Nam đang biến
thành một nỗi cô độc của tận cùng bẽ bàng cùng liêm sỉ dưới đáy.
Đó chính là “triệt buộc.”
Làm thế nào để thoát khoải tình
thế đắng ngắt ấy?
Không mở thì chết, chết cả nút!
Chẳng phải vô tình mà vào Tháng
Tám, 2017, bắt đầu xuất hiện vài dấu hiệu “thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa” trong
chính thể cầm quyền ở Việt Nam.
Có lẽ cũng chẳng phải vô tình mà
trong Tháng Tám trên, Nguyễn Phú Trọng đã chọn Myanmar – một nước chẳng hề có
chung Biển Đông với Việt Nam, cũng chẳng có giao thương và quan hệ quân sự đáng
kể nào với Việt Nam – làm địa chỉ công du; đã gặp riêng Aung San Suu Kyi với lời
chúc về ba thành tựu của Myanmar – hòa hợp hòa giải, cải cách kinh tế và chính
trị, hợp tác quốc tế; rồi còn đề nghị cả việc xây dựng mối quan hệ thắt chặt giữa
đảng CSVN với đảng Liên Đoàn Quốc Gia vì dân chủ của bà Suu Kyi – một đảng mà
theo não trạng chính trị ở Việt Nam thì đương nhiên bị liệt vào loại “phản động.”
Ông Trọng đang nghĩ gì, tính gì
trong đầu?
Đã quá muộn. Nhưng cũng chẳng cần
phải nói thêm “muộn còn hơn không.” Đã đến nước này, không “mở” thì chết!
Hãy chờ xem Nguyễn Phú Trọng và
những người trong Bộ chính trị của ông ta xoay xở ra sao trong thời gian tới.
Nhưng làm gì thì làm, phải mở dân
chủ, mở nhân quyền. Không những mở mà còn phải mở một cách thành thực – như
trái tim và cách thức mà Tổng Thống Thein Sein đã làm ở Myanmar.
“Tự hào đi lên, ơi Việt Nam…”
Cả xã hội đã biến thành một quả
bom sắp phát nổ. Mọi thứ đang tái hiện thời Lê mạt với dân tình nheo nhóc khổ sở,
nạn đói kém và chết đói lan rộng, các cuộc khởi nghĩa nông dân phát ra ở nhiều
nơi, giới quan chức xâu xé lẫn nhau rồi bị dân trả thù. Tất cả đều sẽ là quả
báo, gieo nhân nào gặt quả nấy…
Đã đến nước này, không mở thì chỉ
có chết, chết cả nút!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét