Hiện trạng
Nếu ĐCSVN thức thời tận dụng các
tiềm lực của miền Nam đúng mức và chuyển hướng đúng lúc sau khi thống nhất, thì
Việt Nam đã có một vận hội mới để xây dựng thành một quốc gia dân chủ, phú cường
và văn minh.
Nhưng đến nay, thời gian qua đã
quá đủ để chứng tỏ là ĐCSVN chỉ còn biết dùng bạo lực trấn áp để bảo vệ chế độ
và không còn đủ sức để giải quyết các vấn đề sinh tử cho đất nước. Cụ thể là nợ
công tràn ngập và thất thoát ngân sách làm cho kinh tế nội địa bế tắc, đất nước
cạn kiệt môi sinh, suy đồi đạo đức, lạc hướng giáo dục, vi phạm nhân quyền, bất
ổn xã hội, tất cả làm tình hình ngày càng trầm trọng hơn. Gần đây nhất là tổ chức
khủng bố của công an tại hải ngoại vừa làm ô danh ngoại giao với phương Tây, vừa
công khai lừa dối dân chúng.
Khi đại hoạ Bắc thuộc là thực tế,
thì các hy vọng về phát huy dân chủ, tăng trưởng kinh tế và công bình xã hội chỉ
còn là ảo vọng: Tổ quốc đang lâm nguy là hiện trạng báo động.
Nguyên nhân
Ai tạo ra các thảm họa hiện nay
cho đất nước? Đảng hay dân chúng? Cả hai.
Đảng?
Đảng chi phối toàn bộ mọi sinh hoạt
của đất nước với mô hình: “Đảng lãnh đạo nhà nước, quản lý nhân dân, làm chủ đất
nước”. Cơ chế chính trị này mang quá nhiều tác hại khôn lường.
Một là, hiệu ứng của Mật ước
Thành Đô đã thể hiện khi Đảng phải dâng đất và biển cho Tàu để có hỗ trợ chính
trị. Hiện nay, Đảng phải tìm cách thân Mỹ để tìm chính danh, nhưng Mỹ không
quan tâm Việt Nam đúng mức và Mỹ cũng không có phép lạ làm chuyển biến nội tình
cho Việt Nam.
Hai là, ĐCSVN biến Việt Nam thành
một nền kinh tế trọng thương bất phú, tư bản thân tộc và xã hội thị trường. Đảng
không cần chứng minh có khả năng lãnh đạo và đáng được hưởng thành quả tương xứng.
Chuyện lạ nhất thế giới là Đảng viên không bị truy tố theo pháp luật khi sai phạm
mà chỉ bị kỷ luật và xử lý nội bộ; thậm chí có trường hợp mà cả nước không ai
dám gọi đích danh phạm nhân và còn ca ngợi là người tử tế.
Giải pháp trước mắt là tận diệt
tham nhũng. Lý giải này đúng một phần về nguyên nhân và sai là về thực hiện: biện
pháp không triệt để vì chỉ là để thanh toán các phe nhóm tranh ăn lẫn nhau, luật
lệ không nghiêm minh và tài sản bất chánh của lãnh đạo bất lương đã theo con
cháu ra ngoại quốc từ lâu. Chống tham nhũng là quan trọng nhưng giữ gìn sự toàn
vẹn lãnh thổ và tồn vong của dân tộc trở thành sinh tử hơn bao giờ hết.
Dân chúng?
Quyền dân tộc tự quyết là thiêng
liêng, tối thượng và bất khả xâm phạm, nhưng toàn dân chưa bao giờ có cơ hội và
đủ can đảm hành xử quyền này. Hội nghị Diên Hồng là một trường hợp duy nhất
trong lịch sử. ĐCSVN chưa bao giờ hỏi toàn dân muốn gì để giải quyết các vấn đề
trọng đại của đất nước. Đâu là lý giải cho thực trạng này?
Một là độc tôn Đảng quyền. Đảng
khám phá ra được hai chữ “Nhân Dân” và nhờ thế Đảng định đoạt thay cho toàn
dân, nằm trên và ngoài hệ thống pháp luật. Việc phát động các cuộc đấu tranh chống
Pháp và Mỹ là Nghị Quyết của Đảng; về hiệu lực pháp lý của Bản Tuyên ngôn Độc Lập,
Hiệp định Genève và Paris thì không ai đặt ra quyền phúc quyết của toàn dân
theo thủ tục hiến định.
Hai là vi phạm thẩm quyền lập hiến.
Việt Nam chưa bao giờ có một Hiến Pháp thể hiện đúng theo ý chí chung sống của
toàn dân và là một khuôn mẫu quy phạm chung cho toàn xã hội, mà chỉ là một bản
sao Nghị Quyết của Đảng về những đường lối đấu tranh.
Hiến Pháp có xác định thẩm quyền
lập hiến là chủ quyền của nhân dân, nhưng lại đề cao vai trò tối thượng của Quốc
Hội, một cơ chế Đảng cử dân bầu và không phân định rõ phạm vi. Tất cả quyền lực
của Nhà nước đều thuộc về nhân dân nhưng người dân không thể thực hiện quyền
này trong thực tế, vì phải thông qua Quốc Hội và Hội đồng Nhân dân. Quốc Hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp và chỉ có Quốc Hội mới có quyền
sửa đổi Hiến Pháp.
Hiến Pháp không minh thị thẩm quyền
phúc quyết, đó là một sự thiếu nhất quán trong quy định quyền lực của nhân dân.
Hiến Pháp không phát huy đúng mức quyền làm chủ của nhân dân vì cho phép Quốc Hội
không thực hiện trưng cầu dân ý, một lổi hệ thống. Đây là hai đặc thù nhưng
cũng là một nghịch lý cho đất nước.
Tại sao người dân lại chấp nhận
như vậy? Phải chăng là vì các biện pháp đàn áp và mua chuộc của Đảng thành công
đến độ phải khuất phục? Phải chăng chỉ còn di cư, vượt biên hay hạ cánh an toàn
là giải pháp? Phải chăng không ai còn sức lực và cơ hội đấu tranh và chỉ sống
trong tinh thần nô lệ tự nguyện? Có nhiều câu hỏi về sức mạnh dân tộc mà không
có ai có thể trả lời một cách thoả đáng.
Giải pháp
Để đất nước có thể khởi đầu cho một
kỷ nguyên mới, chúng ta hãy tỉnh thức và phải đòi quyền dân tộc tự quyết để buộc
Đảng phải trả.
Để đạt được mục tiêu, chúng ta
nên can đảm hơn để sống trong sự thật, sống tự do trong một đất nước không tự
do, dám đối kháng đòi ĐCSVN phải tạo ra những giá trị mới cho Hiến Pháp. Đó là
điều kiện khởi đầu. Tại sao? Vì chúng ta muốn là tự đặt mình trong khuôn khổ của
luật Hiến Pháp mới.
Việt Nam hoàn toàn không có một
khế ước nguyên thủy giữa người dân và
chính quyền theo ý nghĩa của một contrarius originarius trong lý thuyết
Luật học, một vấn đề nền tảng cho Hiến Pháp. Vì thế, chính quyền không thể giải
quyết các vấn đề chung sống trong xã hội và dân chúng không thể thoát khỏi tình trạng vô luật lệ. Khế ước
nguyên thuỷ là một vấn đề khái niệm ưu tiên.
Hiện nay, khái niệm NNPQXHCH
không đủ sức thuyết phục, khái niệm về chuyên chính vô sản đã bị chôn vùi; khái
niệm thế lực phản động cũng không phù hợp trào lưu dân chủ hoá; những khái niệm
về đối lập, quyền tư hữu và tự do báo chí tư nhân cũng không được chấp nhận.
Khi toàn dân can đảm nói lên được là mình thực sự muốn gì và Đảng phải đồng
tình thì kết quả này sẽ trở thành vấn đề kỹ thuật cho các nguyên tắc hiến định
và có tác dụng hình thức căn bản khởi đầu cho một Hiến Pháp Tự Do (constitutio
libertatis). Tất cả các khó khăn về khái niệm sẽ được làm lại khi lòng dân đủ mạnh
để ý Đảng phải tuân theo và một khế ước nguyên thủy hình thành. Điểm chính là
toàn dân sẽ cùng gặp nhau trong một điểm chung nhất định, đó là lòng yêu nước.
Tình thế đổi thay, lòng yêu nước
ngày nay phải khác xưa và có một nội dung cảm xúc mới, đó là toàn thể phải biết
nổi giận trước hiểm hoạ diệt vong, khinh bỉ thái độ hèn với giặc và ác với dân,
đồng cảm với bất hạnh của người cô thế, tìm hiểu, mến yêu và bảo vệ những giá
trị phổ quát và cao cả của Hiến Pháp Tự Do mà nguyên tắc dân chủ đại nghị, tam
quyền phân lập, tôn trọng thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên
nhiên là các giá trị mới.
Ý Đảng?
Theo quan điểm lịch sử, Đảng muốn
cầm quyền toàn diện, triệt để và muôn đời. Cho dù các biến động tại Liên Xô và
Đông Âu sau 1989 là một phản chứng lịch sử, nhưng Đảng không thay đổi các lập
luận bảo vệ và không muốn tự bỏ điạ vị cai trị. Đảng chưa phân biệt được một sự
thật đơn giản: dân tộc là vĩnh cữu, không phải là chế độ chinh trị.
Thực tế cho thấy mọi chế độ chính
trị thịnh rồi suy, chỉ có thể đem lại một giải pháp tạm thời cho các vấn đề của
đất nước. Quan trọng nhất là Luật Hiến Pháp sẽ làm nền tảng cho các nguyên tắc
tổ chức chính quyền và xã hội. Khi uy lực nghiêm minh của pháp quyền loan toả
và tinh thần trọng pháp của chính quyền và dân chúng lên cao, đó là cơ sở để
làm ổn định cho việc phát triển chính trị dân chủ.
Lòng dân?
Có hai phạm vi khác nhau cần phân
biệt, đó là nhân quyền nguyên thuỷ là bẩm sinh và lòng mong muốn của người dân
sống trong một chế độ chính trị. Lòng dân mong gì trong thực tế? Muốn sống đời
tự do đích thực hay nô lệ trong chế độ độc tài?
Tĩnh thức thân phận là vấn đề kiến
thức; tìm lại tự do cúa chính mình đã mất nhằm xác định ý muốn để hành động là
vấn đề quyết tâm. Bất phục tùng của người dân không phải là sử dụng bạo lực mà
là không còn muốn hỗ trợ cho bạo quyền tiếp tục cai trị.
Kinh nghiệm về lòng dân của miền
Nam trước 1975 còn đó. Dân chúng hỗ trợ cho MTGPMN thường là bao che cho thân
nhân tập kết theo Cộng sản hoặc muốn yên thân mà thờ ơ trước các biến chuyển của
thời cuộc. MTGPMN còn móc nối được một thành phần mới hoạt động tích cực hơn được
gọi chung là ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản. Họ trực tiếp hay gián tiếp làm việc
cho MTGPMN trong tinh thần chống Mỹ cứu nước. Đa số dân chúng không ý thức là họ
làm suy yếu miền Nam trước hiểm hoạ xâm lăng của Cộng Sản.
Trong khi cấu trúc của chính quyền
VNCH còn phôi thai và cần nhiều thời gian và nỗ lực để xây dựng, nhưng giới
lãnh đạo lại không tìm ra một khái niệm phù hợp để có thể đấu tranh chính trị với
đối phương. Ý thức về một thể chế cộng hoà và dân chủ cũng chưa được phổ biền
qua chương trình giáo dục công dân. Tình trạng chung là bất ổn chính trị liên tục
tạo ra chính phủ không đoàn kết; bộ máy hành chánh quá nặng nề, sinh hoạt công
quyền đều lệ thuộc vào tham nhũng, phân hoá chính trị là vì tinh thần kỳ thị địa
phương và dị biệt tôn giáo; tất cả các yếu tố này làm xã hội ung thối và gây
thuận lợi cho Cộng sàn thành công về địch vận và ngoại vận.
Ngày nay, dù có thuận lợi là được
trang bị vũ khí tối tân, nhưng ĐCSVN đang thất bại trong việc thu phục nhân tâm
với nhiều lý do tương tự. Lòng dân chưa tỏ ra quyết liệt về thái độ thần phục Bắc
triều của Đảng, yếu tố này gây thuận lợi cho tiến trình Hán hoá. Lịch sử thương
đau của sự sụp đổ miền Nam đang lập lại trong một bối cảnh mới với quy mô cả nước
và tốc độ trầm trọng hơn. Nếu muốn sống vô cảm và chờ đợi hạnh phúc giả tạo do
bạo quyền bố thí, thì người dân sẽ không thể thoát khỏi hiểm hoạ Bắc thuộc. Sự
chọn lựa là khẩn thiết hơn, dù chỉ là các suy đoán
Suy đoán?
Đảng tự hào thu phục nhân tâm khi
dựa vào thành tích đấu tranh giải phóng và Đổi Mới; thế hệ tham chiến tự hào là
từ ngày có Đảng đã một lòng một dạ đi theo Đảng; thế hệ hậu chiến trưởng thành
và đồng tình cho các thái tử Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước.
Thiểu số đã có một số góp ý sửa đổi
trong sự dè dặt thường lệ hoặc với tất cả thiện chí. Đóng góp này dù rất đáng
được trân trọng nhưng không gây tiếng vang vì tiếp tục chấp nhận duy trì nguyên
trạng vô luật pháp. Các phản biện cũng không phải là chung quyết của tất cả dân
Việt, nên chưa phải là một khởi điểm cho tiến trình cải cách triệt để.
Dù ý thức về bất công xã hội càng
tăng, người bất đồng chính kiến thấy mình là thiểu số; vì họ không thể xác định
được mức độ. Hiện nay, niềm tin của dân chúng về sự lãnh đạo của Đảng không
còn. Đã đến lúc Đảng không thể suy đoán thiếu cơ sở mà cần xét lại xem lòng dân
đích thực muốn gì, đó là một mệnh lệnh của thời đại.
Các phương pháp thăm dò lòng dân
về nguy cơ diệt vong là không được phép. Ý kiến của toàn dân trước vấn đề hệ trọng
của đất nước cần được tìm hiểu, luận chứng và trình bày công khai với các
phương pháp thăm dò dư luận một cách khoa học khả tín; đó là một chuyện dễ làm,
xảy ra hàng tuần và hằng tháng tại các nước phương Tây, nhưng chưa hề có tại Việt
Nam.
Làm gì?
Nguyên ủy cho mọi chuyển động
tương lai của đất nước là cần xác định lòng dân, một tiền đề theo phương cách
khách quan cho mô hình tương lai của Hiến Pháp mà điều kiện khả thi cần có là tỉnh
thức của Đảng và dân chúng.
Tỉnh thức của Đảng?
Có nhiều suy đoán về các chuyển
biến, nhưng không ai có thể biết chính xác. Vũ khí của Đảng hiện nay không còn
là độc quyền ban phát chân lý của Ban Tuyên Giáo và bạo lực của Công An mà là lập
luận của lý trí dựa trên khái niệm pháp luật để thuyết phục, một hình thức mà Đảng
tự khai sáng và vận dụng.
Trong bối cảnh mới, Đảng phải tự
diễn biến hoà bình, tạo thu hút hơn bằng cách chấp nhận thảo luận là một trò
chơi mới và đồng ý với kết quả luật chơi khi tham dự. Đảng cần lập luận và thuyết
phục dân chúng, không phải chỉ đem hết sức ra mà đấu đá nội bộ đến chết người
và tàn ác với dân như là thế lực thù địch mà hãnh diện gọi là dân chủ vạn lần
hơn các nước phương Tây, một thực tế thương đau hơn là khi hèn với giặc mà ca
ngợi là hợp tác toàn diện.
Đảng là người đầy tớ của nhân
dân, đại biểu trung thành của giai cấp, có thành tích trong chiến tranh chống Mỹ
và Đổi Mới, tất cả các thành tích này không bảo chứng cho Đảng có khả năng lãnh
đạo đất nước trong thời kỳ hiện đại. Lập luận này cũng không phải là khái niệm
pháp luật có thể tạo ra sự đồng thuận của dân chúng về hình thức cai trị và
chính danh cho một nhà nước pháp quyền.
Tỉnh thức của dân chúng?
Toàn dân phải có ý thức về việc sử
dụng quyền dân tộc tự quyết. Đây là chuyện xa vời vì đa số luôn xem cơm áo là
thực tế quan trọng nhất; quyền lực, thân tộc và tiền là phương tiện tốt nhất để
giải quyết mọi tranh chấp; nếu luật pháp là không cần thiết trong đời sống hằng
ngày, thì việc sử dụng thẩm quyền lập hiến không thể đặt ra. Họ có lý do để thờ
ơ về vai trò của luật pháp.
Cảm nhận giá trị về dân quyền là
kết qủa của một nền giáo dục tự do, nhân bản và trọng pháp, nó mang lại kiến thức
và trở thành ý thức cho người dân. Nhưng lạc hướng giáo dục nên chỉ làm ngu
dân, các tác dụng khai dân trí không thể đạt được.
Ngược lại, một thực tế sinh động
khác đang xảy ra: các cuộc biểu tình của dân oan đòi công lý, bảo vệ lãnh thổ,
biển đảo, ngư dân, sáng tỏ những cái chết do bạo lực công quyền trở thành bức
thiết hơn bao giờ hết. Đó là những tín hiệu khởi đầu cho một sự bất ổn thường
trực, làm cho động loạn xã hội trầm trọng hơn mà chính quyền sẽ tập trung hết
nguồn lực và cũng không thể giải quyết.
Ở đây, phải kể đến các phương tiện
truyền thông xã hội đang nối kết mạng lưới thông tin hiện đại. Tuy là trong thế
giới ảo, nhưng cộng đồng mạng là tác nhân tạo nên một hệ thống thông tin trung
thực và nhanh chóng cho đa số. Tác dụng của các chương trình khai dân trí và xướng
nhân quyền làm kiến thức và ý thức của dân chúng được nâng cao; phản ứng của xã
hội dân sự có hiệu ứng làm thay đổi chính kiến nhiều hơn so với trước đây, mà kết
quả các góp ý, thỉnh nguyện, giải ảo và phản hồi trong và ngoài nước là thí dụ.
Dù tỉnh thức của dân chúng có
trong mức độ, nhưng cũng khó xác định chiều hướng và tốc độ chuyển biến toàn xã
hội dân sự thành một triển vọng khả tín.
Ai mang lại giải pháp?
Bạo lực của Đảng quyền hay sức mạnh
mềm của xã hội dân sự, ai sẽ thắng ai? Trước mắt, không ai biết được vì trận
chiến vừa khởi đầu. Nhưng thành tích đấu tranh bất bạo động của Mahatta Ghandi
là một biểu tượng. Tình hình của Việt Nam ngày nay không thể phức tạp hơn Ấn Độ
trước đây.Trong các tranh luận về việc Đảng và dân muốn gì, thì các lập luận
này của cả hai phải cùng tuân thủ theo lý trí trong tinh thần trọng pháp. Đảng
không thể giử mãi độc quyền ban phát chân lý và tận dụng bạo lực, còn toàn dân
tiếp tục thản nhiên trước hoạ diệt vong của giống nòi.
Nếu dân chúng là vấn đề mà Đảng
có thể đem lại giải pháp, thì chính danh của Đảng thêm ngời sáng. Thay vì thuần
phục Tàu và chờ Mỹ thả tín hiệu, Đảng nên có can đảm hỏi lòng dân đang muốn gì,
đó là vấn đề. Ngược lại, khi dân chúng ý thức rằng sẽ đem lại giải pháp cho đất
nước thì mức độ tỉnh thức sẽ cao hơn và
việc đòi hỏi trả lại dân quyền là một cơ hội lịch sử để toàn dân tham gia.
Triển vọng
Lịch sử của đất nước là sự phát
triển tất yếu của tinh thần dân tộc. Bao thế hệ đã thử nghiệm tiến trình phát
triển này, họ hãnh diện vì đã đổ máu xương nhưng phát hiện ra là lạc đường lịch
sử; họ lầm lẫn vì bị lừa đảo mà cái gian dối và độc ác đã chiến thắng và cuối
cùng toàn dân tộc đại bại. Dù nhận trách nhiệm cho tương lai của đất nước, đa số
thuộc thế hệ hậu chiến quên đi kinh nghiệm về sự thờ ơ chính trị của người dân
miền Nam trước năm 1975, nay lại tiếp tục lạnh lùng trước thảm hoạ diệt vong.
Đảng đã tước đoạt quyền dân tộc tự
quyết và không tận dụng các cơ hội để canh tân đất nước và con người; toàn dân
chưa bao giờ có ý thức hành sử dân quyền. Cả hai đã cùng gây thảm hoạ và đến
nay đều chưa thể hiện đúng mức các nỗ lực tất yếu để chuyển hoá cho đất nước.
Dân đang muốn gì và làm gì, Đảng còn có khả năng lãnh đạo được ai và đất nước rồi
sẽ đi về đâu? Đó là các vấn đề sôi bỏng cần thảo luận để giúp chúng ta nhận ra
các điều kiện thay đổi đất nước lạc hướng và con người lạc hậu.
Tỉnh thức về dân quyền để làm
thay đổi vai trò của Đảng và Hiến Pháp không là mơ ước hàn lâm hoang tưởng mà
là một khảo hướng thực tiễn. Nhận chân các giá trị này là vấn đề tỉnh thức hiện
trạng và thực hiện là vấn đề quyết tâm chuyển hướng.
Việt Nam đang cần có một cuộc tái
khởi động lịch sử, dù là đã quá muộn. Đã đến lúc toàn dân cùng nhau: Hãy Tỉnh
Thức Về Dân Quyền: Dân phải đòi và Đảng phải trả để tránh hoạ diệt vong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét