Cứ đến cuối năm, thời gian thường trôi nhanh “tựa cánh chim
bay”. Người ta nói “năm con heo” là năm cuối của 12 con giáp nên
thường có nhiều biến động. Những người bi quan cho rằng Việt Nam đang “họa vô
đơn chí”, còn những người lạc quan trông chờ vào quy luật “cùng tắc biến”.
Trong khi cánh cửa cơ hội cho Việt Nam đang khép lại thì thách thức ngày càng
nhiều và nguy cơ ngày càng lớn. Muốn dự báo năm mới phải nhìn lại năm cũ. Chưa
biết triển vọng năm 2020 sẽ thế nào, nhưng đến cuối 2019, Việt Nam vẫn chưa
thoát khỏi ngã ba đường. Có nhiều nguyên nhân, nhưng dường như “Hà Nội không
vội được đâu”!
Tứ trụ hay Tam trụ
Về đối nội, ông Trần Đại
Quang ra đi khá vội vàng (21/9/2018) đã để lại một lỗ hổng quyền lực và một cơ
hội để ông Nguyễn Phú Trọng tập trung quyền lực vào một mối (TBT & CTN). Hệ
quả là cấu trúc quyền lực “Tứ trụ” (truyền thống) nay trở thành “Tam trụ” (lâm
thời). Dù Việt Nam chưa sẵn sàng “nhất thể hóa” nhưng ông Trọng đã củng cố được
quyền lực, vượt lên trên thiên hạ để “thế thiên hành đạo” (như ông Tập Cận Bình
bên Trung Quốc).
Có người lập luận rằng mô
hình “Tam trụ” vững như “kiềng ba chân” vì dựa trên “thế ỷ dốc”, nhưng nhiều
người khác lại cho rằng về nguyên lý, mô hình “Tứ trụ” (Quad) thường ổn định
hơn mô hình “Tam trụ” (Triad). Thời “Tam quốc” bên Tầu thường loạn lạc và nội
chiến liên miên. Lâu nay, Việt Nam vẫn áp dụng “cơ chế ba mặt” (đảng, chính
quyền, công đoàn) để quản trị, như mô hình “Tổ Tam tam” (ba người) nhằm kiểm
soát lẫn nhau.
Về lý thuyết, “cơ chế ba
mặt” được áp dụng nhằm “phát huy quyền làm chủ tập thể”, nhưng trên thực tế có
thể làm triệt tiêu năng lực sáng tạo của con người và trách nhiệm cá nhân trong
quản trị. “Nhất thể hóa” là một ý tưởng hay nếu áp dụng nghiêm túc, nhưng “Tam
trụ” không phải là “Tam quyền Phân lập” mà chỉ là “bình mới rượu cũ” (vì cùng
mẫu số). Einstein từng nói “người ta không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư
duy đã tạo ra vấn đề đó”.
Nhưng khi đã tập trung và củng cố được quyền lực, ông Nguyễn Phú
Trọng tự tin hơn để tăng cường chiến dịch “đốt lò”, xử lý tiếp các vụ án lớn
(như bắt bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, và Phạm Nhật Vũ, khởi tố
cựu đô đốc Nguyễn Văn Hiến). Có dấu hiệu ông Trọng cân nhắc đến khả năng cải
cách thể chế khi công khai đặt ra 3 vấn đề cốt lõi: Một là có nên xóa bỏ thành
phần kinh tế nhà nước hay không? Hai là đổi mới thể chế chính trị có phải là
đổi mới chế độ hay không? Ba là có cần sửa đổi điều lệ Đảng hay không?
Như “đến hẹn lại lên”, Hội nghị Trung Ương 11 (7-12/10/2019) bắt
đầu chuẩn bị văn kiện và nhân sự cho Đại hội Đảng 13, và lần đầu tiên ông Trọng
đã đề cập đến vấn đề Biển Đông. Trong diễn văn khai mạc, ông kêu gọi “kiên
quyết và kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo theo luật quốc tế”. Trong
diễn văn bế mạc, ông nhấn mạnh “phải phân tích và dự báo trên cơ sở tư duy khoa
học tình hình thế giới và Việt Nam, đặc biệt là về Biển Đông”. Dư luận cho rằng
đó là một chuyển biến đáng kể, nhưng vẫn chưa theo kịp với thực tế.
Bức tranh kinh tế
Theo Moody’s 2020 report (10/10/2019), Tuy GDP tăng 6,8% nhưng
Việt Nam có thể bị hạ mức tín nhiệm vì chậm thanh toán nợ tới hạn, làm mất khả
năng thanh toán, có thể dẫn tới vỡ nợ quốc gia. Chính phủ nợ nước ngoài hơn 100
tỷ USD, và các doanh nghiệp nợ nước ngoài 100 tỷ USD, cộng lại thành hơn 200 tỷ
USD, gần bằng toàn bộ GDP của Việt Nam. Ngoài nợ nước ngoài, Việt nam còn nợ
trong nước, tương đương 200 tỷ USD gồm nợ của chính phủ và doanh nghiệp. Gần
đây, Thống đốc Lê Minh Hưng đã báo cáo Quốc hội về khoản 53.000 tỷ VNĐ mà các
ngân hàng đã cho vay để làm BOT, có nguy cơ trở thành nợ xấu.
Ngoài số nợ nước ngoài 200 tỷ USD được thống kê chính thức, có thể
phát sinh những khoản nợ nước ngoài khác từ các doanh nghiệp chưa được thống
kê. Tháng 9/2019, Tổng cục Thống kê đã bất ngờ công bố phát hiện thêm 76.000
doanh nghiệp trước đó không có trong sổ sách. Động cơ của việc công bố này là
nhằm làm tăng thêm GDP để “lấy thành tích chào mừng Đại hội
Đảng”. Nhưng số phát sinh này chiếm hơn 10% tổng số doanh nghiệp
hoạt động ở Việt Nam, trong đó chắc có nhiều khoản vay nước ngoài mà Bộ Tài
chính không biết.
World Bank cho biết trong 3 năm tới
có khoảng 50% nợ trong nước của Chính phủ đáo hạn, và Chính phủ vẫn chưa biết
lấy đâu ra tiền để trả nợ (trừ việc in tiền ồ ạt), và có khoảng 30% số doanh
nghiệp nhà nước không có khả năng trả nợ nên đối mặt với nguy cơ phá sản, nếu
chính phủ từ chối trả nợ thay cho các doanh nghiệp nhà nước. Moody sẽ xem xét
hạ mức đánh giá 17 ngân hàng, nên 50% các ngân hàng Việt Nam sẽ bị hạ mức tín
nhiệm.
Theo VietNamNet
(21/10/2019), trong báo cáo về nợ công năm 2020, Chính phủ Việt Nam cần vay
thêm 459 nghìn tỷ VNĐ để cân đối ngân sách, trong đó bao gồm khoản bù đắp bội
chi ngân sách là 217 nghìn tỷ VNĐ, khoản trả nợ gốc của ngân sách trung ương là
217 nghìn tỷ VNĐ, và nhận nợ bảo hiểm xã hội là 9,1 nghìn tỷ VNĐ. Dự kiến nghĩa
vụ trả nợ của Chính phủ trong năm 2020 là 379 nghìn tỷ VNĐ. Dự báo đến cuối năm
2020 Việt Nam có mức nợ công khoảng 54,3% GDP, nợ chính phủ khoảng 48,5% GDP và
nợ nước ngoài của quốc gia là 45,5% GDP. Việc phải đi vay để bù đắp bội chi
ngân sách có nghĩa là tiền làm ra vẫn chưa đủ đáp ứng chi tiêu thường xuyên, và
chính phủ vẫn phải “vay nợ mới để trả nợ cũ”.
Tuy dự luật “ba đặc khu” bị dư luận phản đối quyết liệt buộc Quốc
Hội phải hoãn (vô thời hạn), nhưng chắc các nhóm lợi ích không chịu bỏ cuộc,
vẫn tìm cách thao túng chính sách như miễn thị thực cho người nước ngoài vào
khu kinh tế ven biển (như Vân Đồn và Phú Quốc). Tuy dự án đường cao tốc Bắc Nam
(đường bộ và đường sắt) cũng bị dư luận phản ứng quyết liệt buộc Bộ GT-VT hủy
bỏ kết quả đấu thầu quốc tế để tạo điều kiện cho các nhà thầu trong nước tham
gia, nhưng họ vẫn thúc đẩy dự án đường sắt Hà Khẩu-Lào Cai-Hải phòng (khổ
1,435m, với 39 nhà ga, 73 chiếc cầu dài 130km, và 25 đường hầm chui 25km) do
Trung Quốc thiết kế và xây dựng (kinh phí 100.000 tỷ VNĐ). Đây là một mắt xích
trong kế hoạch “Một vành đai, Một con đường”, chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích
chiến lược của Trung Quốc.
Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, “Việt Nam khuyến khích đầu tư nước
ngoài, không cần biết là các dự án đó chỉ dùng công nghệ lạc hậu, ô nhiễm, và
lao động không chuyên giá rẻ làm hàng xuất khẩu sang Mỹ và các nước khác, và
cũng không cần biết đến vốn đi từ đâu, mà thực chất một phần không nhỏ là mượn
từ ngân hàng Việt Nam…Đến nay, Việt Nam chỉ là bàn đạp, thậm chí là bãi rác cho
nước khác làm hàng xuất khẩu xâm nhập vào Mỹ và các nước khác”. Theo ông Việt,
Việt Nam cần xem xét kỹ có nên tham gia RCEP hay không, sau khi Ấn Độ và Nhật
đã quyết định rút. Đây là hiệp định mà Trung Quốc cổ vũ mạnh mẽ nhằm đối địch
với TPP không có Trung Quốc (mà Mỹ đã rút) để giúp Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng
với kinh tế với các nước ASEAN trong chiến lược “Một vành đai, Một con đường”
của họ.
Trong bối cảnh đối đầu Việt-Trung tại bãi Tư Chính, Việt Nam cần
rà soát lại các dự án có rủi ro về an ninh quốc gia theo tinh thần Nghị quyết
50-NQ/TW (20/8/2019). Trả lời chất vấn tại Quốc Hội (9/11/2019) Ngoại trưởng
Phạm Bình Minh thừa nhận có hàng trăm doanh nghiệp Việt đứng tên thay cho
người nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc) đầu tư kinh doanh bất động sản và du
lịch dưới nhiều hình thức “núp bóng”. Các dự án này thường chiếm vị
trí xung yếu về an ninh quốc phòng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ và hậu họa
khôn lường.
Đối đầu tại Bãi Tư Chính
Về đối ngoại, Hà Nội đã tự tin hơn khi đăng cai tổ chức họp cấp
cao Trump-Kim (3/2019) và ông Trọng đã nhận lời đi thăm Mỹ khi ông Trump trực
tiếp mời (như một cách cám ơn). Đây là một thắng lợi quan trọng về ngoại giao
trong năm 2019. Hội thảo về định hướng hợp tác chiến lược Mỹ-Việt cấp thứ
trưởng tại Washington (4/2019) là một dấu hiệu tích cực, tuy năm trước Việt Nam
đã lặng lẽ hủy bỏ 15 họat động giao lưu quốc phòng với Mỹ (cho năm 2019). Theo
các chuyên gia, đó là động thái đối phó tình huống vì sức ép Trung
Quốc.
Nhưng điều bất ngờ (và khá bí ẩn) là ông Trọng đã “gặp hạn” khi
đến Kiên Giang (14/4/2019) phải cấp cứu vào bệnh viện điều trị. Dù dư luận đồn
đại về “bệnh thật hay giả”, nhưng kế hoạch thăm Mỹ năm 2019 của ông Trọng không
thực hiện được (vì lý do sức khỏe hay lý do chính trị). Lúc đầu dự kiến đi vào
tháng 7, sau dự kiến đi vào tháng 10, nay phải lùi sang năm, nhưng 2020 là năm
tranh cử tổng thống Mỹ nên càng dễ rủi ro. Kết cục là cuối năm 2019 Việt Nam
vẫn chưa nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược như dư luận mong
đợi.
Trong khi đó, Trung Quốc cho tàu khảo sát HD-8, có nhiều tàu tuần
duyên vũ trang hộ tống, xâm nhập vùng biển của Việt Nam (từ 3/7/2019) dẫn đến
đối đầu tại Bãi Tư Chính và khủng hoảng Biển Đông “lần hai” (“lần đầu” là năm
2014). Họ vừa thăm dò địa chấn vừa quấy rối các hoạt động dầu khí của Việt Nam
tại dự án Lan Tây-Lan Đỏ (lô 06-01) liên doanh với Rosneft (Nga) và ONGC (Ấn
Độ) tại Nam Côn Sơn, gần bãi Tư Chính. Sau đó HD-8 chuyển lên thăm dò khu vực
ven biển từ Phan Thiết đến Quảng Ngãi, cách bờ có 70 hải lý.
Mấy tháng qua, Trung Quốc đã dùng vũ lực quấy rối và xâm lấn Việt
Nam tại Bãi Tư Chính, bất chấp luật biển quốc tế và phán quyết PCA. Họ ngang
ngược coi Bãi Tư Chính là “vùng tranh chấp” và còn tuyên bố là “lãnh thổ của
Trung Quốc”. Hành động xâm lấn này đã buộc Việt Nam phải có thái độ cứng rắn
hơn, và làm dư luận quốc tế (đặc biệt là Mỹ) lên án Trung Quốc và ủng hộ Việt
Nam. Trên thực tế, Trung Quốc đang xô đẩy Việt Nam về phía Mỹ, làm nhiều trí
thức và quan chức đòi kiện Trung Quốc và nâng cấp đối tác chiến lược với Mỹ.
Điều đó được phản ánh rõ trong mấy bài viết gần đây của ông Vũ
Ngọc Hoàng (nguyên ủy viên trung ương và phó ban tuyên giáo), và Tọa đàm Khoa
học “Vùng biển Bãi Tư chính và luật quốc tế” do viện PLD tổ chức tại Hà Nội
(6/10/2019). Trong diễn văn khai mạc và bế mạc Hội nghị Trung Ương 11
(7-12/10/2019) ông Nguyễn Phú Trọng đã chính thức lên tiếng về vấn đề Biển
Đông. Tuy dư luận quốc tế cho rẳng thái độ của Việt Nam cứng rắn hơn, nhưng dư
luận trong nước cho rằng như vậy vẫn còn “quá ít và quá muộn” (too little too
late).
Tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ 11 (6/11/2019), đại diện
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã xác nhận đang “cân nhắc kiện Trung Quốc”. Thực ra
Việt Nam đã cân nhắc kiện từ năm 2014. Theo Gregory Poling (AMTI/CSIS), khi
Việt Nam làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ và Chủ tịch
ASEAN vào năm tới, nếu chỉ đề cập đến căng thẳng Biển Đông một cách chung chung
mà không dám gọi tên Trung Quốc là kẻ gây ra căng thẳng (vì “đại cục”) thì cũng
như không, vì chẳng có gì mới để quốc tế ủng hộ mạnh
hơn.
Khủng hoảng Biển Đông
Khủng hoảng Biển Đông “lần đầu” (5/2014) đã làm người Việt bị sốc
và quan hệ Việt-Trung lâm vào khủng hoảng, nhưng chưa đổ vỡ vì “đại cục” như
cái vòng kim cô trói buộc Việt Nam từ sau Thành Đô (9/1990). Nay khủng hoảng
“lần thứ hai” (2019) còn tiếp diễn (on and off). Theo Ryan Martinson (học viện
hải quân Mỹ), Trung Quốc “quyết tâm ngăn chặn Việt Nam khai thác tài nguyên
dưới đáy biển” sau khi Rosneft thuê giàn khoan Hakuryu 5 (của Nhật) để khoan
thăm dò gần Bãi Tư Chính. Trung Quốc không chỉ quấy rối và bắt nạt, mà còn
ngang ngược lên án Việt Nam “đơn phương vi phạm chủ quyền Trung
Quốc”.
Đó là hành động “vừa ăn cướp vừa la làng”, vì Trung Quốc đuối lý trước
dư luận quốc tế, nên phải dùng sức mạnh để bắt nạt các nước khu vực trong “vùng
xám” (grey area), và tìm cách gạt Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi Biển Đông.
Mục tiêu của họ là áp đặt “đường chín đoạn”, để từng bước lấn chiếm Biển Đông
như “chuyện đã rồi” (fait acommpi), tiến tới kiểm soát Biển Đông như “cái ao
của họ”. Trung Quốc đã quân sự hóa và biến các đảo đá mà họ chiếm của Việt Nam
tại Trường Sa (1988) thành các căn cứ quân sự và hậu cần (như Chữ Thập, Ru Bi,
Vành Khăn). Việt Nam càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới.
Tiếp theo các tuyên bố của ông John Bolton và Mike Pompeo (trước
đó), trợ lý Ngoại trưởng David Stilwell đã điều trần (gần đây) tại Tiểu ban
Đông Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, nhấn mạnh rằng
Trung Quốc tiếp tục đe dọa và bắt nạt các nước khác tại Biển Đông. Họ muốn hợp
pháp hóa bộ quy tắc ứng xử (COC) có hại cho khu vực và tất cả các nước coi
trọng tự do hàng hải. “Sự quấy rối liên tục của Trung Quốc đối với các hoạt
động của Việt Nam xung quanh Bãi Tư Chính là một trường hợp rõ
rệt”.
Theo VOA (25/10/2019), trong bài phát biểu về quan hệ Mỹ-Trung tại
Trung tâm Woodrow Wilson (24/10/2019), Phó Tổng thống Mike Pence đã tố cáo cách
hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc, gây mất ổn định nhiều hơn cho khu
vực trong năm qua. Ông Mike Pence nói Bắc Kinh đã gia tăng sử dụng cấc tàu “dân
quân biển” để thường xuyên đe dọa các thủy thủ và ngư dân Philippines và
Malaysia. Ông chỉ trích Trung Quốc bắt nạt Việt Nam trong vụ tranh chấp chủ
quyền tại Biển Đông. “Cảnh sát biển Trung Quốc đã lấy thịt đè người để ngăn cản
Việt Nam khoan dầu khí ngoài khơi trong vùng biển của chính mình”.
Ông Derek Grossman (RAND Corporation) bình luận “việc Trung Quốc
bắt nạt Việt Nam tại Biển Đông đã được Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence nêu bật”,
và “không có một nước nào đứng lên để bảo vệ Việt Nam như Mỹ”. Nhưng trong khi
Việt Nam đối đầu với Trung Quốc tại Bãi Tư Chính và khủng hoảng Biển Đông “lần
hai”, gần đây có tin đồn ExxonMobil định bỏ dự án Cá Voi Xanh. Tuy chưa rõ
nguyên nhân do sức ép của Trung Quốc hay do tính toán thương mại, nhưng nếu
ExxonMobil rút thật thì đây là tin mừng cho Bắc Kinh.
Theo đánh giá của các chuyên gia, các
tuyên bố về điều chỉnh chiến lược của Mỹ (như NSS 2017, NDS 2018, và
Indo-Pacific Strategy 2019) đã nhấn mạnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung. “Đồng
thuận Washington mới” về chiến lược đối với Trung Quốc có thể tạo ra điều kiện
thuận lợi để các nước có quan điểm cứng rắn hơn tại Biển Đông.
Việt Nam vẫn cô đơn
Theo Marine Traffic (Reuters, 24/10/2019), tàu khảo sát HD-8 và
các tàu hộ vệ đã rời khỏi vùng biển Việt Nam trở về Trung Quốc. Họ đã “hoàn
thành nhiệm vụ” sau 3 tháng khảo sát địa chấn nhằm khẳng định chủ quyền trong
“đường chín đoạn” và quấy rối gây sức ép đòi Việt Nam đình chỉ các hoạt động thăm
dò và khai thác dầu khí tại đây. Tuy Trung Quốc rút tàu HD-8 về nhưng ý đồ lâu
dài của họ không thay đổi. Trong tháng 11/2019, họ lại cho tàu HD-620 và HD-9
xâm phạm vùng biển EEZ của Việt Nam và Malaysia để khảo sát trái phép. Sẽ không
ngạc nhiên nếu Trung Quốc điều dàn khoan vào thăm dò tại những nơi
họ vừa khảo sát.
Theo ông Carl Thayer, thông điệp của ông Nguyễn Phú Trọng gần đây
khi đề cập đến vấn đề chủ quyền Biển Đông báo hiệu rằng Hà Nội khó có thể lùi
bước trước Bắc Kinh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hai nước “quyết không để mất một
tấc đất nào do tổ tiên để lại” thì bàn cờ phân định thắng thua vì lợi ích quốc
gia phải đảm bảo khả năng quốc phòng và quốc tế vận cao nhất. Trong cuộc chơi
này, dù Hà Nội tuyên bố cứng rắn hơn “không bao giờ thỏa hiệp”, nhưng cách thức
bảo vệ chủ quyền quốc gia trong 3 tháng qua tại Biển Đông cho thấy sự chênh
lệch về năng lực quân sự, và sự cô đơn của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ
quyền.
Trong mấy tháng qua, Việt Nam đã phải
đối phó chật vật với Trung Quốc và khả năng đối đầu tại Biển Đông sẽ còn tái
diễn trong thời gian tới, nếu vấn đề đối tác chiến lược và liên minh quân sự
vẫn bất khả thi vì chính sách “ba không” của Việt Nam. Trong bài trả lời phỏng
vấn RFI (26/10/2019) ông Vũ Ngọc Hoàng nhấn mạnh rằng chỉ có dân chủ hóa mới
tập hợp được sức mạnh dân tộc để bảo vệ tổ quốc và phát triển đất nước. Trong
bối cảnh Việt Nam bị Trung Quốc xâm lấn thì Việt Nam cần phải liên minh với Mỹ
và các nước khác.
Ngoài Mỹ và Nga, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng với Nhật và
EU. Đại tướng Ngô Xuân Lịch đã thăm châu Âu (14-19/10/2019) để tăng cường hợp
tác quốc phòng. Điều đó có thể làm Hà Nội tự tin hơn và “bớt cô đơn” trong
tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Nhưng các hoạt động ngoại giao (hình thức)
không hỗ trợ được về quân sự (thực chất). Tuy các hoạt động ngoại giao đó là
cần thiết nhưng chưa tương xứng với tình hình Biển Đông. Nếu Việt Nam vẫn cô
đơn về đối tác chiến lược thì các hoạt động ngoại giao không đủ răn đe Trung
Quốc xâm lấn, dù Việt Nam có tiến tới kiện Trung Quốc tại tòa án quốc tế về
luật biển.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố (17/5/2019) “không đối tượng nào
được tiến hành khai thác dầu khí hoặc các tài nguyên khác ở vùng biển Trung
Quốc”. Nhưng theo Rosneft (17/5/2019) hoạt động khoan thăm dò của họ vẫn diễn
ra trong vùng biển của Việt Nam. Bennet Murray viết (Foreign Policy, Oct 30,
2018) “Dù Nga chưa bao giờ chính thức đứng về phía Việt Nam trong vấn đề Biển
Đông, nhưng hiện chỉ có Nga đang hoạt động dầu khí tại khu vực Việt Nam khẳng
định chủ quyền (trong “Đường Chín Đoạn”). Putin và Tập không công khai chống
lại lợi ích của nhau, nhưng không có nghĩa là họ không xung đột lợi
ích. Theo David Hutt (Asia Times, Aug 21, 2019) “một trong những lý
do khiến lần này Việt Nam cứng rắn hơn trước là do có các đồng minh mạnh hơn.
Ngoài Mỹ, Nhật, Pháp, EU, Việt Nam còn có Nga”.
Nhưng theo Anders Corr (Journal of Political Risks), chỉ có Mỹ
mới đủ điều kiện trở thành đồng minh cốt lõi đủ sức chống lại Trung Quốc.
Còn Nga, Úc, Ấn Độ có thể là đối tác chiến lược hữu ích nhưng không đủ
khả năng làm đồng minh cốt lõi vì họ thiếu sức mạnh cần thiết để chống lại
Trung Quốc. ASEAN cũng không thể hỗ trợ nhiều cho Việt Nam trong bối cảnh các
nước thành viên ngày càng chịu ảnh hưởng lớn của Bắc Kinh, nên thường phủ quyết
mọi chỉ trích Trung Quốc. Hội nghị Cấp cao ASEAN 35 (Bangkok, 2-4/11/2019) cũng
không ngoại lệ. Hy vọng năm 2020 Mỹ sẽ thúc đẩy quan hệ với ASEAN bằng họp
summit tại Mỹ.
Để chống lại Trung Quốc, Anders Corr cho rằng Việt Nam cần
một chiến lược mới trong đó có 4 thành tố quan trọng. Một là liên minh
với các nước có thể răn đe Trung Quốc ở mức cao nhất (như Mỹ, Pháp, Anh).
Hai là liên minh với các nước có đủ năng lực triển khai nhanh lực lượng
quân sự thông thường để răn đe Trung Quốc (như Mỹ). Ba là vận dụng thành
quả kinh tế để nâng mức chi tiêu quân sự nhằm răn đe Trung Quốc (như mua
thêm tàu ngầm và tên lửa). Bốn là dân chủ hóa và cải thiện nhân quyền để
tạo điều kiện thuận lợi cho liên minh kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn với
các nước chịu ảnh hưởng ít nhất của Trung Quốc.
Quá ít và quá chậm
Cần xem xét các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam trong bối
cảnh thế giới và khu vực đang diễn biến khó lường. Muốn cải cách và phát triển
đất nước, phải dựa vào nội lực là chính, nhưng Việt Nam phải tranh thủ tối đa
sự đồng thuận và hộ trợ quốc tế. Trước mắt cần giảm lệ thuộc vào Trung Quốc và
tăng cường hợp tác với Mỹ và phương Tây. Tuy cải cách thể chế là yêu cầu sống
còn để tháo gỡ các nút thắt về nội lực nhằm phát triển đất nước và bảo vệ chủ
quyền quốc gia, nhưng quá trình này đang bị các nhóm lợi ích thao túng chính
sách làm trệch hướng đường ray. Đó có thể là cơ hội tốt để Trung Quốc thao túng
và bắt nạt. Nhưng đến nay các nỗ lực cải cách thể chể vẫn “quá ít và quá chậm”
(too little, too late).
Thứ nhất, cần xem xét tranh chấp Biển Đông trong bối cảnh chiến
tranh thương mại Mỹ-Trung “vừa đánh vừa đàm” (on and off). Đến cuối năm 2019,
có dấu hiệu Trung Quốc đã thấm đòn, buộc phải nhượng bộ một bước để củng cố nội
bộ. Trong khi đó, chính quyền Trump cũng cần thỏa thuận một bước để đối phó với
sức ép trong nước, trước năm bầu cử 2020. Vì vậy, có khả năng hai bên sẽ đạt
được một thỏa thuận nào đó vào cuối năm 2019. Nhưng triển vọng hòa hoãn chỉ là
tạm thời (chiến thuật), trong khi triển vọng đối đầu vẫn là lâu dài (chiến
lược). Sau cuộc chiến về thương mại, có thể sẽ dẫn đến cuộc chiến về tài
chính.
Thứ hai, cần xem xét các vấn đề của Việt Nam trong bối cảnh chính
trị nội bộ Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 4 (28/10-3/11/2019). Kết
quả hội nghị chứng tỏ Tập cận Bình đã củng cố được quyền lực, trước những tin
đồn về bất ổn trong nội bộ sau hội nghị Bắc Đới Hà. Gần đây khi đề cập đến sự
tồn vong của Đảng, Tập đã nhấn mạnh từ “đấu tranh” đến 20 lần trong
một bài phát biểu, thậm chí còn dùng cụm từ “thịt nát xương tan” để răn đe. Tin
đồn về Trần Mẫn Nhĩ (bí thư Trung Khánh) và Hồ Xuân Hoa (phó thủ tướng) có thể
được bổ xung vào Thường vụ Bộ Chính trị và Trần Mẫn Nhĩ có thể kế cận Tập Cận
Bình và phụ trách Ban Kiểm tra Kỷ luật TW (thay Triệu Lạc Tế), đã không diễn ra
như đồn đoán.
Thứ ba, cần xem xét khủng hoảng Biển Đông bên cạnh khủng hoảng
Tiểu vùng MeKong, cũng nguy hiểm không kém (tuy thầm lặng hơn), đe dọa cuộc
sống của 20 triệu người Việt tại đồng bằng Nam Bộ. Trung Quốc xây nhiều đập
thủy điện trên thượng nguồn, kiểm soát dòng chảy và nguồn phù sa. Theo David
Hutt, Trung Quốc có khả năng thao túng dòng chảy sông
MeKong dẫn đến nguy cơ xung đột mới tại khu vực. Theo Brian Eyler
(Stimson Center director) khủng hoảng sông MeKong đang tới gần. Theo Climate
Central và Nature Communications (New York Times, Oct 29,
2019), đến năm 2050 gần như toàn bộ đồng bằng Nam bộ sẽ bị chìm dưới mực nước
biển. Tuy dự doán này còn tranh cãi, đó là một nguy cơ lớn.
Thứ tư, cần xem xét quy luật phát triển của Việt Nam trong bối
cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường (thực phẩm, nguồn nước, không khí),
vì các nhóm lợi ích thao túng chính sách và dân trí thấp. Gần đây trong dân có
câu “Rạng Đông chưa qua, Sông Đà đã tới” để nói đến vụ cháy nhà máy Rạng Đông
đã phát tán vào môi trường 28kg thủy ngân, và vụ đổ dầu thải làm ô nhiễm nguồn
nước Sông Đà, đe dọa cuộc sống của hàng triệu người Hà Nội. Trong khi đó, các
đại gia bất động sản câu kết với chính quyền thành các nhóm lợi ích, đang thao
túng chính sách để làm giàu bằng mọi giá, xâm chiếm cả rừng quốc gia cần được
bảo tồn, như Sun Group bị tố cáo chiếm rừng quốc gia Tam đảo để làm dự án nghỉ
dưỡng.
Theo các chuyên gia quốc tế, trận động đất 6.1 ở Bắc Lào
(21/11/2019 mà tâm chấn không xa đập thủy điện Xayaburi (1260 MW, 3.5 tỷ USD)
là hồi chuông cảnh báo cho tham vọng làm thủy điện không chỉ của Lào mà cả Việt
Nam, vì PetroVietnam đã đầu tư hàng tỷ USD vào dự án thủy điện Luang Prabang
(dự kiến khởi công vào 7/2020). Trong khi đập Xayaburi là một hiểm họa vì xây
gần đường đứt gãy đang hoạt động (active faults) đập Luang Prabang (1410 MW)
không phải là ngoại lệ. Thượng lưu sông Mekong (Vân Nam, Bắc Lào) là vùng động
đất, nên lợi ích của thủy điện trên sông Mekong là quá nhỏ so với rủi ro quá
lớn đối với con người và môi trường. Lối thoát là cần đầu tư vào năng lượng tái
tạo từ mặt trời và gió, thay cho thủy điện đang trở thành cơn ác mộng vỡ đập
dây chuyền sẽ tạo ra cơn hồng thủy khủng khiếp của thiên niên kỷ, với sức tàn
phá của những trái bom nước khổng lồ có khả năng cuốn băng đi hàng triệu sinh
mạng và các thành phố tại châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL.
Tại Việt Nam có một nghịch lý đáng buồn là các đại gia càng giầu
lên thì người dân càng ngèo đi và đất nước càng tụt hậu, do lòng tham cao nhưng
dân trí thấp. Việt Nam dù có “rừng vàng biển bạc” và có một cái “mỏ người” gần
100 triệu dân, nhưng theo mô hình “tư bản hoang dã” (chứ không phải “định hướng
XHCN”). Theo các chuyên gia, đó là mô hình “không chịu phát triển”. Hệ quả là
nhiều người Việt phải bỏ đất nước ra đi (bằng thuyền hay bằng xe container) bất
chấp rủi ro về tính mạng và tài sản (dù chỉ để làm thân phận nô lệ). Sau 74 năm
dựng nước và 44 năm thống nhất đất nước, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi ngã ba
đường.
Ba không một nếu
Trung Quốc đã rút tàu khảo sát HD-8 về nước trong bối cảnh có mấy
biến chuyển mới. Một là ông Trọng không đi thăm Mỹ trong năm nay. Hai là giàn
khoan Hakuryu 5 (của Nhật) đã rời khỏi lô 06.01 và di chuyển về Vũng Tầu
(23/10/2019). Ba là Trung Quốc muốn làm giảm căng thẳng với Mỹ trước thỏa thuận
thương mại (vòng một). Ông Trọng không đi thăm Mỹ trong năm 2019 (như dự kiến)
dù vì lý do sức khỏe hay vì sức ép của Trung Quốc, cũng là một thất bại. Kết
quả là khả năng nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt lên đối tác chiến lược (như dư luận
mong đợi) và kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế (như dư luận đòi hỏi) vẫn còn bị
treo.
Trong bối cảnh đó, có nhiều
diễn biến ngày càng bất lợi cho Trung Quốc, tiếp theo khủng hoảng chính trị tại
Hong Kong. Thứ nhất, một loạt tài liệu nội bộ của Trung Quốc bị dò gỉ đã tố cáo
các trại tập trung cải tạo người Hồi tại Tân Cương không phải là các trung tâm
đào dạy nghề như Bắc Kinh vẫn tuyên truyền. Thứ hai, một điệp viên Trung Quốc
xin tị nạn chính trị tại Úc đã tố cáo Trung Quốc tìm cách tác động vào bầu cử
tại Đài Loan, Hong Kong, và bắt cóc những người bất đồng chính kiến. Thứ ba,
kết quả bầu cử cấp quận tại Hong Kong trong đó các ứng cử viên ủng hộ dân chủ
đã thắng áp đảo là một cơn địa chấn chính trị. Thứ Tư, Hạ viện và Thượng viện
Mỹ đã nhất trí thông qua dự luật “Hong Kong Human Rights and Democracy Act”,
được Tổng thống Trump phê duyệt, là một lá bài quan trọng (như Đài
Loan).
Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence có bài
phát biểu cứng rắn về Trung Quốc tại Trung tâm Woodrow Wilson (24/10/2019),
trong đó lên án Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam, gắn vấn đề HongKong và Đài Loan
với đàm phán thương mại Mỹ-Trung. Trong bài phát biểu, Mike Pence đã nhấn
mạnh “tàu tuần duyên Trung Quốc đã dùng sức mạnh ép Việt Nam không được khoan
dầu khí ngoài khơi trong vùng biển của mình”. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố
(8/2019) Trung Quốc cưỡng ép không cho Việt Nam liên doanh với các công ty dầu
khí không phải Trung Quốc, mà chỉ được hợp tác với các công ty nhà nước Trung
Quốc.
Tuy ông Nguyễn Phú Trọng không thể đi
thăm Mỹ trong năm nay, nhưng Bộ trưởng Thương mại Wilbur Ross và Bộ trưởng
Quốc phòng Mark Esper đã đến thăm Việt Nam trong tháng 11/2019 để thúc đẩy
hợp tác thương mại và quốc phòng Mỹ-Việt, trong bối cảnh Trung Quốc đang tăng
cường bắt nạt Việt Nam tại Biển Đông. Trong một tuyên bố trước đó, Bộ Quốc
phòng Mỹ đã lên án Trung Quốc áp đặt những đòi hỏi bất hợp pháp về chủ quyền
Biển Đông và bắt nạt các nước khu vực. Đó là bối cảnh Việt Nam công bố “Sách
Trắng Quốc phòng” (25/11/2019). Sau 10 năm, Việt Nam mới công bố
Sách Trắng Quốc Phòng, nhằm “minh bạch hóa chính sách quốc phòng và xây dựng
lòng tin đối với các quốc gia trên thế giới”.
Sách trắng Quốc phòng 2019 được định hướng là “Hòa Bình và Tự vệ”,
nhấn mạnh “Hợp tác và Đấu tranh”, trong đó đề cập đến tình hình căng thẳng tại
Biển Đông và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn (Mỹ và Trung Quốc). Theo
các chuyên gia, Sách Trắng Quốc Phòng 2019 về cơ bản vẫn duy trì chính sách “Ba
Không” nhưng được điều chỉnh thành “Bốn Không” (hay “Ba không Một nếu”), để ngỏ
khả năng hợp tác chiến lược với các nước (như Mỹ) “nếu có chiến
tranh”. Sách trắng Quốc phòng đã vạch ra “làn ranh đỏ” (Red line) và gửi
đi thông điệp rõ ràng là Việt Nam quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích kinh tế nếu
bị xâm lược.
***
Đến cuối năm 2019, Việt Nam
dường như vẫn chưa thoát khỏi Ngã Ba đường, bàn cờ quốc tế vẫn bất an và bất
định với những diễn biến khó lường. Việt Nam cần tập trung vào ba mục tiêu
chính: một là giảm thiểu lệ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị; hai
là tăng cường hợp tác toàn diện với Mỹ (như dự án điện khí Sơn Mỹ 2, trị giá 5
tỷ USD) để giảm thiểu thâm hụt thương mại; ba là đẩy mạnh cải tổ thể chế để
tháo gỡ ách tắc nhằm phát huy nội lực. Những tồn đọng của năm 2019 chắc sẽ để
lại những gánh nặng cho năm 2020 khi Viêt Nam làm Chủ tịch ASEAN và thành viên
không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, trước thềm Đại Hội Đảng XIII tại Việt
Nam, cũng như chiến dịch tranh cử Tổng thống tại Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét