Sau vụ đại gia Thái Lan mua lại BigC Việt Nam với giá 1,05 tỉ USD, nhiều người bắt đầu giật mình về làn sóng ồ ạt của các đại gia Thái Lan tràn vào, thâu tóm nhiều hệ thống siêu thị, hệ thống bán lẻ của Việt Nam. Trước đó, vụ thâu tóm đình đám khác của đại gia Thái tại Việt Nam là thương vụ chuỗi bán buôn Metro được mua lại bởi Berli Jucker (BJC), tập đoàn nằm dưới quyền sở hữu của tài phiệt nổi tiếng Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi, đối thủ trực tiếp của Central và dòng họ Chirathivat.
Chính ông Phạm Ngọc Hưng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp
TP HCM, cảnh báo trên báo chí rằng “Trái cây, hoa quả trong nước phải nhường chỗ
hoặc bị hoa quả ngoại đánh bật khỏi các quầy, kệ siêu thị. Điều này khiến hoa
quả Việt ngày càng bị đẩy ra vỉa hè, lề đường là một thực tế đáng báo động”.
Thật ra giật mình cũng phải, vì hiện tại, không cần nói gì đến
siêu thị, cứ đi các cửa hàng tạp hóa nhỏ ở các vùng quê đến các cửa hàng lớn ở
các thành thị, hầu hết các loại bánh kẹo nổi tiếng, nằm ở những nơi quan trọng
nhất đều có tên của người Thái. Đó là chưa kể đến các doanh nghiệp bán lẻ của Mỹ,
Hàn Quốc, Nhật Bản cũng tràn vào Việt Nam để đón đầu làn sóng hội nhập, lợi thế
khi Việt Nam gia nhập hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTAs) và các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới.
Đó là một điều dễ hiểu. Khi các FTAs có hiệu lực, Việt Nam sẽ
được nhiều ưu đãi, trong đó có ưu đãi về xuất khẩu. Những yêu cầu của các FTAs
thế hệ mới còn giúp Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư (nguồn lao động, môi
trường pháp lý, thủ tục hành chính...) sẽ giúp các doanh nghiệp nước ngoài có
điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn. Đó là chưa kể nhiều doanh nghiệp nước ngoài
của các nước thành viên FTAs đang chuyển hình thức đầu tư, từ việc xuất khẩu hạn
chế sang Việt Nam (vì rào cản thuế quan) chuyển sang xuất khẩu nhiều hơn, thậm
chí mở các vùng nguyên liệu ở Việt Nam để hưởng giảm thuế, bán lẻ cạnh tranh với
Việt Nam.
Nói một cách dễ hiểu, sắp tới đây, vì hàng hóa nhập vào Việt
Nam sẽ được giảm thuế nhiều hơn, nhiều mặt hàng nông sản, dệt may, gỗ, hàng
tiêu dùng, hàng điện tử, thực phẩm... khi vào Việt Nam sẽ có giá thấp hơn rất
nhiều, thế nên các doanh nghiệp nước ngoài xây dựng các chuỗi bán lẻ để cạnh
tranh. Tuy nhiên, xu hướng này không phải mới diễn ra trong năm nay. Gần chục
năm trước, khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhiều đại
gia nước ngoài bắt đầu nghĩ đến chuyện đưa cơ sở buôn bán vào đầu tư tại Việt
Nam. Các thương vụ sáp nhập đình đám được báo chí loan tải chỉ là phần nổi của
tảng băng chìm bên dưới – nơi các doanh nghiệp ngoại quốc âm thầm thâm nhập thị
trường Viêt Nam, bằng cách tiếp thị chu đáo và phục vụ khách hàng đến từng cái
bánh, cái kẹo và những nhà bán lẻ nhỏ trong nước.
Năm 2015 đến nay, khi các FTAs đã bắt đầu đi vào giai đoạn
cuối của việc chuẩn bị áp dụng, thị trường không còn con đường nào khác ngoài
việc mở cửa trong thời gian từ ba đến năm năm tới, các doanh nghiệp nước ngoài
cũng đủ sức đứng vững trên thị trường Việt Nam, thì việc tiến hành sáp nhập các
doanh nghiệp nước ngoài là chuyện sớm muộn gì cũng xảy ra. Điều đáng nói là việc
chuẩn bị của Việt Nam, kể cả từ góc độ quản lý đến góc độ kinh doanh đều tỏ ra
khá chậm chạp và thụ động, nếu không muốn nói là quá chậm so với sự chủ động của
các đại gia nước ngoài.
Thứ nhất là về cơ chế, chính sách cho đến nay vẫn còn nhiều
hạn chế. Ngay cả trong thương vụ Big C Việt Nam bị phía Thái Lan mua lại cũng
thấy rõ điều này. Trước làn sóng xâm nhập mạnh mẽ của các nhà bán lẻ nước
ngoài, khó khăn mà các đơn vị bán lẻ trong nước vẫn còn đang vấp phải chính là
cơ chế bảo hộ nhà bán lẻ trong nước và chất lượng hàng hóa nội địa. Cụ thể là
quy định ENT (xác định nhu cầu kinh tế cần thiết của địa điểm, một công cụ mà
Việt Nam đã giành được trong WTO để bảo hộ hợp lý các doanh nghiệp trong nước)
chưa được thực thi triệt để, chưa có cơ chế đặc thù để tạo điều kiện thuận lợi
cho các đơn vị bán lẻ quy mô lớn trong nước tham gia mua bán, sáp nhập. Mặc dù
nhiều đơn vị bán lẻ trong nước đã vượt qua được những khó khăn về huy động vốn
để trở thành ứng viên tiềm năng nhất của thương vụ mua Big C Việt Nam nhưng do
chưa có giấy phép đầu tư ra nước ngoài nên kết quả chưa được như mong muốn, và
kết quả là siêu thị Big C Việt Nam cuối cùng lọt vào tay tập đoàn lắm tiền nhiều
của đến từ Thái Lan với giá 1,05 tỉ USD.
Thứ hai, việc quy hoạch ngành bán lẻ của Việt Nam dường như
còn quá nhiều hạn chế. Phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng thương hiệu hàng nội
địa, phát triển chuỗi liên kết hàng giữa nhà sản xuất và siêu thị... vẫn còn
gây tranh cãi qua nhiều năm. Thế nên doanh nghiệp bán lẻ mạnh ai nấy làm, còn
nhà sản xuất thì mạnh ai nấy sản xuất, thiếu tính kết nối dẫn đến hệ quả đáng
tiếc là hàng hóa không thương hiệu, trong khi các kệ hàng đều bị hàng hóa nước
ngoài chiếm lĩnh.
Thứ ba, bản thân các doanh nghiệp bán lẻ cũng không chú ý đến
việc phát triển nội lực và cũng không quan sát tinh tế sự thâm nhập của doanh
nghiệp nước ngoài đang âm thầm diễn ra xung quanh họ. Trong khi các doanh nghiệp
nước ngoài thâm nhập bằng nhiều cách khác nhau thì doanh nghiệp bán lẻ nội địa
dường như vẫn loay hoay với việc tìm ra các giải pháp thương mại điện tử hiệu
quả, hay đơn giản là giải pháp mua bán hiệu quả. Bản thân các doanh nghiệp bán
lẻ cũng không chủ động tạo ra nguồn hàng bền vững, thay vào đó là nhiều siêu thị
thường làm giá trong cuộc chạy đua của các nhà sản xuất vào các kệ hàng.
Trong vòng vài năm tới đây, các cửa hàng tiện lợi, các siêu
thị của doanh nghiệp nước ngoài sẽ tiếp tục làm mưa làm gió đối với thị trường
kinh doanh bán lẻ nội địa. Cái chính là doanh nghiệp nội địa có ý thức được họ
đang đứng trước nguy hiểm hay không, hay là họ vẫn tin rằng vì họ nhỏ bé nên
không ai để ý.
Nguồn: VOA Tiếng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét