Nhà máy thủy điện Hố Hô (Hà Tĩnh)
xả lũ. Courtesy of news.zing.vn
Tác động môi trường và con người
Truyền thông trong nước ngày 9/10
vừa qua dẫn lời đại diện Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nói rằng nếu Việt Nam cho
khai thác thêm 300-400 dự án thủy điện nhỏ và vừa thì sẽ góp phần bổ sung nguồn
điện thiếu hụt trong các năm tới cho đất nước.
Tại Hội nghị toàn quốc về phát
triển thủy điện vừa và nhỏ, năng lượng tái tạo do Bộ Công Thương tổ chức hôm
9/10, ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nói rằng hiện
nay Việt Nam đang phải đối mặt với nguồn năng lượng hóa thạch cạn kiệt như
than, khí đốt. Trong khi đó đến năm 2020 Việt Nam phải tìm ra các nguồn điện bổ
sung cho lượng thiếu hụt khoảng 100 tỷ kWh và con số này sẽ lên đến 300 tỷ kWh
vào năm 20130.
Vì vậy ông Ngãi đề xuất tiếp tục
khai thác thủy điện vừa và nhỏ vì chúng mang lại hiệu quả kinh tế và có công suất
điện khá cao.
RFA trao đổi với Thạc sĩ Nguyễn
Huỳnh Thuật, một chuyên gia về môi trường, cũng là người đã vận động thành công
việc hủy bỏ hai dự án thủy điện lớn trên sông Đồng Nai vì những tác động tai hại
đến khu vực rừng quốc gia Nam Cát Tiên. Quan điểm của ông là phản đối việc phá
rừng để xây dựng nhà máy thủy điện. Lý do ông đưa ra là ảnh hưởng đến hệ sinh
thái:
Nếu làm thủy điện ở những vùng có
rừng thì mình sẽ phá rừng để hi sinh làm thủy điện. Các dòng sông làm thủy điện
có độ dốc tương đối cao và đa số những nơi đó là còn rừng. Nếu làm như vậy mình
phải hi sinh môi trường, đặc biệt là đa dạng sinh học. Rừng không chỉ là cây
như chúng ta nhìn vào mà còn nhiều loài khác nhau. Khi mình phá rừng, tổng thể
hệ sinh thái phục vụ cho con người, và các loài khác trong chuỗi mắt xích sẽ bị
phá hủy. Như vậy sẽ đe dọa đến sự tồn vong của loài người.
Ông nói gần đây Việt Nam xảy ra
nhiều trận hán hán, lũ lụt lịch sử mà nguyên nhân một phần lớn là do nạn phá rừng.
Trận lũ lụt đầu tháng 10 vừa qua
đã khiến hơn 70 người thiệt mạng, hơn 200 ngôi nhà bị sụp đổ, hơn 40 ngàn ngôi
nhà bị ngập, hơn 9000 gia súc và hàng trăm ngàn gia cầm chết đuối. Việt Nam gọi
đây là trận lụt lịch sử trong tháng 10 ở Việt Nam.
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn,
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, thuộc Đại học Cần Thơ cho biết
nguồn thủy năng ở Việt Nam hiện nay đã gần cạn kiệt. Nếu làm thêm nhà máy thủy
điện thì khả năng lớn là trên các sông suối nhỏ:
Tại vì mình không nắm được các hồ
sơ đó nên không biết những nhà máy thủy điện vừa và nhỏ nằm ở đâu, chiếm bao
nhiêu diện tích và bao nhiêu rừng sẽ bị phá để phục vụ chuyện này.
Tôi nghĩ từ 300-400 là nhiều lắm.
Mặc dù hiện tại dự án cụ thể của
các nhà máy thủy điện này chưa được công bố nhưng Tiến sĩ Lê Anh Tuấn nói rằng
khả năng lớn sẽ được xây dựng ở các khu rừng núi hiểm trở bởi vì ở những địa
hình dễ làm Việt Nam đều đã cho tiến hành xây dựng.
Ông nói rằng hiện tại rất khó
đánh giá tác động cụ thể của các nhà máy này bởi vì chưa có một thông tin nào
được công bố. Tuy nhiên theo ông, các nhà máy thủy điện bấy lâu nay đã để lại
cho Việt Nam nhiều bài học về tác động môi trường và con người, mặc dù chúng
cung cấp một lượng lớn điện năng cho cả nước:
Nó có nhiều vấn đề về môi trường,
xã hội, ngoài yếu tố về kinh tế. Ví dụ chuyện di dân, những người sống ở khu vực
lòng hồ sẽ phải di dân. Mà thường thường sẽ di chuyển đến chỗ khó khăn hơn chỗ ở
cũ. Rồi vấn đề về tái định cư, và sinh kế của người dân ở đó bởi vì họ sống ở
dưới thung lũng thì họ dễ dàng canh tác, bắt cá nhưng khi di dời, theo khảo sát
của tôi, thì cuộc sống của họ khó khăn hơn rất nhiều.
Ngoài ra những hồ chứa như vậy phải
hi sinh rất nhiều đất rừng. Mà rừng ở Việt Nam càng ngày càng thu hẹp và chất
lượng không còn dồi dào như ngày xưa nữa. Nếu tiếp tục xây dựng thủy điện thì
diện tích rừng càng ngày càng ít dần.
Ngoài ra, ông cho biết hồ chứa thủy
điện sẽ giữ lại phần lớn phù sa trên sông, sẽ làm cho vùng hạ lưu gặp nhiều khó
khăn hơn trong việc tiếp nhận phù sa. Bên cạnh đó sẽ cản đường di cư của các
loài cá, hay ảnh hưởng đến vấn đề giao thông thủy trên sông.
Một vấn đề quan trọng nữa ông nêu
ra đó là khi nhà máy thủy điện vận hành sẽ làm thay đổi các đặc điểm dòng chảy
của sông. Dòng sông có lúc phải tích nước lại, có lúc phải xả nước nhiều, chứ
không được chảy liên tục như trước đó.
Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật bổ
sung thêm rằng việc xây dựng đập thủy điện có thể ảnh hưởng đến cuộc sống, văn
hóa của người bản địa, đẩy họ vào tình thế vốn đã cô lập nay còn bị tổn thương
hơn. Vô hình chung điều này sẽ ảnh hưởng đến tình hình ổn định chính trị để
phát triển đất nước.
Một nguy cơ khác có thể xảy ra nếu
phát triển quá nhiều nhà máy thủy điện, ông nói tiếp:
Đặc biệt ở Việt Nam luôn làm thiếu
tính hệ thống. Vừa rồi ở Lào có vụ việc vỡ đập thủy điện. Nếu đập thủy điện bị
vỡ như vậy sẽ tác động đến các đập khác, gây ra hiện tượng vỡ đập liên hoàn.
Như vậy người dân ở vùng sâu sẽ không sơ tán kịp và nhiều người sẽ chìm trong
vùng lụt, phải chịu mất mát về cả tính mạng con người và của cái vật chất.
Trong buổi Hội nghị về phát triển
thủy điện nêu trên, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cũng nói rằng nếu Việt
Nam có xây thêm nhà máy thủy điện thì cần hạn chế tối đa phá hoại rừng và phải
có quy trình chặt chẽ trong việc xây dựng và vận hành hồ chứa.
Có khả thi?
Thủy điện là vấn đề gây nhiều
tranh luận trong mấy năm trở lại đây. Tại miền Trung cứ đến mùa mưa lũ là các đập
thủy điện lại xả lũ vì sợ vỡ đập. Điều này gây ra hiện tượng lũ chồng lũ ở khu
vực vốn đã chịu nhiều thiên tai nhất trên cả nước. Những đợt xả lũ như vậy gây
nhiều thiệt hại về vật chất và thậm chí là tính mạng của người dân.
Riêng tại Việt Nam hiện nay chưa
có những nghiên cứu đầy đủ về tác động của các đập nước lớn như Sông Đà và Trị
An, nhưng ngày càng có nhiều lo ngại về các đập thủy điện trên thượng nguồn
sông Mekong ở Lào và Trung Quốc, một ngày nào đó sẽ kết liễu sự sống của đồng bằng
sông Cửu Long. Tháng 5 vừa qua, các chuyên gia Việt Nam đã lên tiếng yêu cầu
hoãn dự án thủy điện Pắc Beng ở Lào để bảo vệ 20 triệu dân Đồng bằng sông Cửu
Long.
Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm
bảo vệ ngành thủy điện. Ngay trong buổi hội nghị, Phó vụ trưởng Vụ Thủy điện, Bộ
Công Thương, ông Phan Duy Phú cho rằng, thủy điện nhỏ và vừa là nguồn tài
nguyên quý giá của quốc gia, là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo và cần
được khai thác hợp lý. Hay ông Bùi Thế, Phó giám đốc Sở Công Thương Lâm Đồng
nói rằng các công trình thủy điện đã giúp tỉnh này phát triển kinh tế trong thời
gian qua.
Trước đó Bộ Công Thương cũng từng
đưa ra đánh giá rằng thủy điện nhỏ và vừa có nhiều lợi ích như cung cấp năng lượng,
giúp đỡ nông nghiệp, mang lại công ăn việc làm cho dân,…
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn nói rằng bây
giờ còn quá sớm để đánh giá liệu việc xây dựng 300-400 nhà máy thủy điện có khả
thi hay không:
Bởi vì số lượng lớn như vậy thì
có thể có một số nhà máy khả thi. Nhưng khả thi cho cái gì mới được? Ví dụ khả
thi về mặt kinh tế nhưng đôi khi không khả thi về mặt môi trường hay mặt xã hội.
Nên phải có hồ sơ mới đánh giá được tính khoa học, khả thi hay tính bền vững,…
Ví dụ nhà máy đó đặt ở vị trí phù hợp hay không, điều kiện nước có bảo đảm hay
không, phải hi sinh bao nhiêu rừng, và bao nhiêu người dân phải di tản.
Thạc sĩ Nguyễn Huỳnh Thuật lại có
cái nhìn khác. Ông cho rằng việc xây thêm số lượng lớn nhà máy thủy điện như vậy
sẽ không khả thi khi đưa vào thực tiễn. Ông giải thích:
Quan điểm của Hiệp hội Năng lượng
hay Bộ Công thương có thể cho là khả thi. Nhưng khi đưa ra thực tiễn sẽ không
khả thi.
Ví dụ đơn giản như hai dự án thủy
điện Đồng Nai 6 và 6A, đã được Chính phủ đưa vào quy hoạch từ năm 2001 cho đến
năm 2011 là 10 năm. Nhưng đến 2012 Thủ tướng vẫn phải rút lại.
Nó không khả thi ngoài thực tế vì
dân những vùng đó sẽ phản đối và công luận cũng sẽ phản đối khi môi trường tự
nhiên bị hi sinh để làm thủy điện.
Tiến sĩ Lê Tuấn Anh nói rằng bản
thân ông không phản đối thủy điện, nhưng với điều kiện là phải cân nhắc thật kỹ
lưỡng những tác động nó mang lại. Ông cho rằng Việt Nam cũng nên cân nhắc các
nguồn năng lượng khác thân thiện với môi trường mà giá thành ngày càng rẻ như
năng lượng gió, mặt trời, thay vì cứ chú trọng đầu tư thủy điện truyền thống.
Trong khi đó, tại Hội nghị, Vụ
trưởng Vụ Năng lượng Tái tạo ông Phạm Trọng Thực lại nói rằng thực tế năng lượng
tái tạo chỉ đủ cung cấp thêm cho nguồn điện chứ không thể thay thế các nguồn
khác. Khi không có nắng, không có gió là phải dùng năng lượng dự trữ hoặc các
nguồn năng lượng khác như nhiệt điện than, thủy điện để phát điện.
Những ý kiến các chuyên gia đưa
ra dẫn đến một câu hỏi rằng liệu Việt Nam có xem xét trận lũ lụt lịch sử này
khi đưa ra quyết định xây thêm đập thủy điện hay không? Và liệu Nhà nước có thảo
luận công khai với người dân tại những khu vực được chọn xây nhà máy hay không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét