Một cánh đồng thực phẩm hữu cơ
(organic) ở tỉnh Hualien, Đài Loan. Ảnh: Taiwan Panorama.
Bàn về tầm quan trọng cốt yếu của
chính sách ruộng đất nông nghiệp công bằng đối với thịnh vượng tại châu Á.
Có một thứ cũng gây ấn tượng mạnh
gần như tính năng động của khu vực châu Á, chính là việc các nước trong khu vực
này thịnh vượng theo một cách rất không đồng đều, tới mức tương phản với các
khu vực châu Phi, Mỹ La Tinh, hay châu Âu. Nhật Bản thuộc nhóm những nước
giàu (GDP đầu người khoảng $38,000) về mặt thực tế địa lý nằm trên cùng một
nhóm quần đảo bao gồm cả Philippines (GDP đầu người $2,950). Singapore giàu có
($53,000) chỉ cách Myanmar ($1,275) có một giờ bay.
Trên bán đảo Triều Tiên, mức độ
tương phản còn sắc nét hơn nữa. Hai nền kinh tế có khởi đầu trong những hoàn cảnh
tương đồng bây giờ đã phát triển theo hai hướng riêng rẽ tới mức đáng ngạc
nhiên: người Hàn Quốc bây giờ trung bình cao hơn người Bắc Triều Tiên từ 3 đến
8cm, tùy thuộc vào độ tuổi, nhưng đều nhờ vào việc người Hàn Quốc có chế độ
dinh dưỡng tốt hơn.
Nhân loại đã tốn rất nhiều bút mực
bàn luận về các nguyên do của hiện tượng “Đông Á thần kỳ” (East Asian miracle).
Trong hiện tượng đó, đầu tiên là Nhật Bản, tiếp theo sau là bốn “con hổ châu Á”
đầu tiên – Hong Kong, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan – và sau nữa là Trung Quốc,
đều đã duy trì được mức tăng trưởng chắc chắn trong hàng thập niên.
Phần lớn các nghiên cứu chỉ ra
các chính sách theo hướng thân thiện với kinh tế thị trường, vốn đã khuyến
khích xuất khẩu hàng hóa sản xuất trong nước và tạo điều kiện cho việc tích lũy
vốn tư bản nhanh chóng, bao gồm cả vốn con người. Một số các nghiên cứu khác đặt
nặng tầm quan trọng của các thiết chế chính trị. Tuy nhiên, một yếu tố vẫn thường
tương đối bị xem nhẹ: tái cấu trúc nền nông nghiệp nội địa.
“Cải cách đất đai” (land reform),
nghe vô thưởng vô phạt, nhưng bao gồm một công tác “kinh thiên động địa”: tịch
thu đất từ những ai sở hữu đất và trao đất đó cho những ai không có sở hữu đất.
Nghe ghê gớm như vậy, tuy nhiên những hành động triệt để đó có lẽ là cần thiết ở
những quốc gia có phần đông dân số là người nghèo sống ở nông thôn.
Như Joe Studwell đã giải thích
trong cuốn sách “Châu Á vận hành như thế nào” (How Asia Works), sản lượng nông
nghiệp tại những quốc gia như thế thường bị đình trệ. Dân số càng tăng, đất ruộng
càng hiếm, còn địa chủ thì tăng tiền thuê đất và cho vay nặng lãi. Tất cả những
thứ đó dẫn đến tình trạng nhiều nông dân thuê đất ruộng nghèo nàn phải ngập
chìm trong nợ nần và không có phương tiện để đầu tư làm ăn.
Trung Quốc là một ví dụ rõ nét.
Vào những năm 1920, 1/10 dân số nước này sở hữu trên 7/10 đất đai trồng trọt được.
3/4 các gia đình làm ruộng có ít hơn một héc-ta đất. Lực lượng cộng sản của Mao
Zedong (Mao Trạch Đông) đã tái phân bố sở hữu đất đai trên mọi khu vực họ chiếm
được. Sau khi đánh bại phe Quốc Dân đảng vào năm 1949, phe cộng sản tiến hành cải
cách ruộng đất trên toàn quốc.
Giới địa chủ Trung Quốc, ngay cả
một số trong đó không có nhiều đất hơn nhiều người khác, đã bị đem ra làm dê tế
thần. Trong thập niên sau năm 1945, hàng triệu địa chủ đã bị đánh đến chết hoặc
xử bắn, hay bị bỏ đói. Cách mạng, Mao nói, không phải là một bữa yến tiệc.
Một người Trung Quốc bị cáo buộc
là “địa chủ” đang bị xét xử trước một “toà án nhân dân” ở Quảng Đông vào tháng
7/1952 trong phong trào “Cải cách ruộng đất” do đảng Cộng sản Trung Quốc tiến
hành. Ảnh: Bettmann/Corbis/AP Images.
Ảnh hưởng của cải cách ruộng đất
đến ngay lập tức. Sản lượng thóc tăng có lẽ vào khoảng 70% trong thập niên sau
cuộc nội chiến Trung Quốc. Khi nông dân có thể tận dụng được phần lớn giá trị đất
đai của họ, họ có một động lực lớn để sản xuất. Và trong khi nông nghiệp quy mô
nhỏ lẻ luôn thuộc dạng cần rất nhiều nhân công, việc đó lại hoàn toàn có lý
trong bối cảnh nhân công thừa mứa. (Phải vài năm sau đó thì những người cộng sản
Trung Quốc mới bắt đầu cái trò tập thể hóa sản xuất điên rồ. Trung Quốc cuối
cùng vượt qua thảm họa đó năm 1978, sau khi Mao chết. Bắc Triều Tiên thì chỉ mới
bắt đầu thoát khỏi công cuộc tập thể hóa gần đây.)
Thành công sớm của Trung Quốc
thách thức Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Những quốc gia này đồng thời cũng chịu
sức ép từ Hoa Kỳ phải tiến hành cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, họ đã cho thấy rằng
việc cải cách này không cần phải giết người hàng loạt.
Cho tới Thế chiến thứ Hai, một nửa
đất trồng trọt của Nhật Bản đang được các nông dân thuê đất sử dụng, và tiền
thuê chưa bao giờ dưới một nửa sản lượng thu hoạch. Sau chiến tranh, kích cỡ mỗi
nông trại được giới hạn xuống còn ba héc-ta. Các ủy ban đất đai được thiết lập
mà trong đó số lượng nông dân thuê đất luôn nhiều hơn số địa chủ. Các ủy ban
này giám sát một tiến trình tái phân chia đất đai có tác dụng đưa đất đai từ
hai triệu hộ dân sang cho bốn triệu hộ dân khác.
Công tác đền bù địa chủ không thỏa
đáng (và tiền đền bù bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát), tuy nhiên đã có rất ít bạo
lực diễn ra giữa những người nông dân Nhật Bản. Có thể lý do là vì việc chiếm lấy
đất ruộng của ai đó có thể diễn ra đơn giản và lịch sự hơn, nếu bạn luôn có thể
đổ lỗi cho chính sách do những kẻ chiếm đóng người Mỹ đem đến. Dù là gì, nông
nghiệp Nhật Bản đã phát triển bùng nổ.
Hàn Quốc thì có sở hữu ruộng đất
không đồng đều nhất trong khu vực, và mức độ phản kháng từ giới tinh hoa nắm
quyền cũng mạnh mẽ nhất. Một số địa chủ đã phải chịu mất đến 90% đất đai của họ.
Tuy nhiên Đài Loan dưới chế độ Quốc
Dân đảng cho thấy những lợi ích rõ ràng nhất của việc cải cách ruộng đất bằng một
cách:
Bắt đầu với kiểm soát giá thuê đất
và cải cách chế độ thuê mướn đất. Sau đó là công tác bán lại đất do Nhật Bản sở
hữu tại Đài Loan. Sau đó, năm 1953, mới có công tác phân bổ sở hữu.
Phần đất do nông dân sở hữu và
canh tác tăng từ 30% năm 1945 lên 64% năm 1960. Sản lượng mía đường và gạo tăng
mạnh. Các thị trường mới cho trái cây ngoại lai và rau quả được thiết lập. Xuất
khẩu nông nghiệp các giai đoạn đầu phần lớn là từ các hộ nông dân nhỏ lẻ.
Cốt yếu nữa là, chênh lệch thu nhập
tại Đài Loan giảm nhờ vào lực lượng nông dân có tư bản mới ra đời. Càng phải
chi ít tiền nhập khẩu thức ăn, càng có nhiều tiền vào túi người dân Đài Loan,
và một tinh thần kinh doanh làm chủ mới được khai sinh: nông nghiệp chính là điểm
khởi đầu của sự phát triển kinh tế kỳ diệu của Đài Loan.
Cải cách ruộng đất thành công và
không đổ máu, Đài Loan giờ đây là một trong những xã hội thịnh vượng và tự do
nhất châu Á. Ảnh: travel.taipei.
Rẻ bằng nửa giá
Indonesia, Malaysia và Thái Lan đều
đã có thể noi gương Đài Loan, nhưng họ đã không làm.
Nền kinh tế của họ đều đang trong
tình trạng tệ hơn. Với khoảng 25% (tại Malaysia) và 48% (tại Thái Lan) dân số
các nước này đang sống tại các khu vực nông thôn, phân bổ đất đai là một công
tác quan trọng. Các chính quyền các nước này thì lại ưu tiên doanh nghiệp nông
nghiệp và đồn điền, hơn là giới nông dân nhỏ lẻ. Luôn có một mức chênh lệch lớn
về thu nhập giữa nông thôn và thành thị tại các nước này.
Tình hình ở Philippines còn tệ
hơn, cho dù nước này có mức thu nhập bình quân đầu người sau Thế chiến thứ Hai
ngang bằng với Đài Loan cùng thời kỳ.
Trước khi trao trả độc lập cho
Philippines năm 1946, Hoa Kỳ đã cho bán đấu giá một lượng đất đai lớn của giáo
hội Thiên Chúa giáo nước này. Chỉ có giới tinh hoa địa phương là có đủ tiền để
mua đất. Chính giới tinh hoa mua đất này trở thành giai cấp sở hữu đồn điền vốn
đang ‘làm mưa làm gió’ thời nay. Giai cấp đó chính là nền tảng cho các đại gia
đình chính trị tại Philippines.
Thực tế là, sau cuộc Cách mạng
Quyền lực Nhân dân (the People Power revolution) – vốn do Cory Aquino, con gái
một gia đình địa chủ và kết hôn với chồng từ một gia đình địa chủ khác – áp lực
chính trị đòi tái phân bổ đất đai đã góp phần dẫn đến một đạo luật cải cách được
thông qua năm 1988.
Sau 30 năm, đạo luật đầy những lỗ
hổng pháp lý đó vẫn đang được triển khai. Hoạt động của các khối bất động sản
ruộng đất lớn vẫn không bị ảnh hưởng mấy, trong khi các hộ nông dân nhỏ lẻ thì
vẫn thiếu thốn các trợ giúp kỹ thuật và tài chính. Nhiều hộ nông dân được giao
đất đã phải cho các doanh nghiệp nông nghiệp lớn thuê lại đất này ở mức giá rẻ
mạt. Theo đó, những hộ nông dân này trở thành những người làm công ăn lương
ngay trên đất đai họ sở hữu.
Ở đây có cả những hệ quả chính trị.
Tình trạng phát triển nông nghiệp có tính dung nạp (inclusive agricultural
growth) tại các quốc gia như Hàn Quốc và Đài Loan đã dẫn dắt các nước này đến việc
có được chính trị mang tính dung nạp (inclusive politics) trong các nền dân chủ
đang phát triển mạnh tại các nước này.
Tại Đông Nam Á, trái ngược lại,
chủ nghĩa bè phái thân hữu và tính trì trệ là những hệ quả của một nền kinh tế
không công bằng với những ai nằm dưới đáy của nó. Philippines và Thái Lan rõ
ràng đều đã và đang phải trả giá cho việc không giúp đỡ người nghèo vươn lên:
tình trạng phiến quân nổi loạn và bạo động tại các khu vực nông thôn.
Khi chúng ta cân đong chi phí và
lợi ích, cải cách ruộng đất, nếu làm tốt, bắt đầu trông có vẻ bổ và rẻ.
Lược dịch từ bài báo “Land To The Tiller” của tạp chí The Economist đăng bản in giấy ngày 14/10/2017. Cách dòng do người dịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét