Nguồn: Ward Wilson, “The Bomb Didn’t Beat Japan… Stalin
Did”, Foreign Policy, 30/5/2013.
Phải chăng 70 năm chính sách về vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã dựa trên một lời nói dối?
Việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Nhật Bản trong
Thế Chiến II từ lâu đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận cảm tính. Ban đầu,
ít ai đặt ra nghi vấn về quyết định của Tổng thống Truman là thả hai quả bom
nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Nhưng vào năm 1965, nhà sử học Gar
Alperovitz đã lập luận rằng mặc dù bom nguyên tử đã trực tiếp chấm dứt chiến
tranh, song giới lãnh đạo Nhật Bản dù gì cũng đã muốn đầu hàng và có thể đã đầu
hàng trước khi cuộc đổ bộ của Mỹ dự kiến vào ngày 1 tháng 11 năm 1945 diễn ra.
Do vậy, việc sử dụng bom nguyên tử là không cần thiết. Rõ ràng là nếu việc thả bom là không cần thiết để giành chiến thắng thì việc ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki là sai lầm. Trong 48 năm sau đó, rất nhiều người đã tham gia vào cuộc tranh cãi: một số người ủng hộ Alperovitz và lên án vụ ném bom, những người khác lại phản bác nảy lửa và cho rằng những vụ ném bom là cần thiết, hợp đạo đức, và giúp cứu mạng rất nhiều người.
Do vậy, việc sử dụng bom nguyên tử là không cần thiết. Rõ ràng là nếu việc thả bom là không cần thiết để giành chiến thắng thì việc ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki là sai lầm. Trong 48 năm sau đó, rất nhiều người đã tham gia vào cuộc tranh cãi: một số người ủng hộ Alperovitz và lên án vụ ném bom, những người khác lại phản bác nảy lửa và cho rằng những vụ ném bom là cần thiết, hợp đạo đức, và giúp cứu mạng rất nhiều người.
Tuy nhiên, cả hai dòng tư tưởng đều giả định rằng việc ném
xuống Hiroshima và Nagasaki loại vũ khí mới và uy lực hơn đã buộc Nhật Bản phải
đầu hàng vào ngày 9 tháng 8 năm 1945. Cả hai dòng tư tưởng đều đã không chất vấn
tính hữu ích của việc ném bom ngay từ đầu – về căn bản là hỏi rằng liệu việc đó
có hiệu quả không? Quan điểm chính thống là có, tất nhiên là đã có tác dụng.
Hoa Kỳ đã ném bom Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 và Nagasaki vào ngày 9 tháng 8,
khi đó Nhật Bản cuối cùng đã chịu khuất phục trước đe dọa tiếp tục bị ném bom hạt
nhân và đầu hàng. Luận điểm này được ủng hộ vô cùng mạnh mẽ. Nhưng nó có ba vấn
đế lớn, và khi tổng hợp lại thì cả ba sẽ làm giảm đáng kể tính thuyết phục của
cách diễn giải truyền thống cho sự đầu hàng của Nhật Bản.
Vấn đề thời gian
Vấn đề đầu tiên của cách diễn giải truyền thống là thời
gian. Và đó là một vấn đề lớn. Cách diễn giải truyền thống chỉ đi theo một dòng
thời gian đơn giản: Không lực Lục quân Hoa Kỳ[1] ném bom hạt nhân xuống
Hiroshima vào ngày 6 tháng 8, ba ngày sau họ ném một quả bom nữa xuống
Nagasaki, và ngay hôm sau Nhật Bản tỏ ý định muốn đầu hàng”. Khó mà có thể đổ lỗi
cho những tờ báo của Mỹ vì cho đăng những dòng tít như “Hòa bình ở Thái Bình
Dương: Bom của chúng ta đã thành công!”.
Khi câu chuyện về Hiroshima được kể lại trong phần lớn sách
lịch sử Mỹ, ngày vụ ném bom diễn ra – ngày 6 tháng 8 – được dùng làm cao trào của
câu chuyện. Tất cả thành tố của câu chuyện đều hướng đến thời khắc đó: quyết định
chế tạo quả bom, những nghiên cứu bí mật ở Los Alamos, cuộc thử nghiệm đầu tiên
đầy ấn tượng, và thành quả cuối cùng ở Hiroshima. Nói cách khác, nó được kể như
là một câu chuyện về bom nguyên tử. Song không thể nào phân tích quyết định đầu
hàng của Nhật Bản một cách khách quan trong bối cảnh câu chuyện về bom nguyên tử.
Ngay cách nói “câu chuyện về bom nguyên tử” đã giả định rằng vai trò của bom
nguyên tử là trọng tâm rồi.
Nếu xem xét từ quan điểm của Nhật Bản, thì ngày quan trọng
nhất trong tuần thứ 2 của tháng 8 năm đó không phải ngày 6 mà là ngày 9 tháng
8. Đó là ngày Hội đồng Tối cao đã họp – lần đầu tiên trong cả cuộc chiến – để
bàn về việc đầu hàng vô điều kiện. Hội đồng Tối cao là một nhóm gồm 6 thành
viên cao cấp nhất của chính phủ – giống như một “nội” nội các – và trên thực tế
là nhóm người đã cai trị Nhật Bản trong năm 1945. Giới lãnh đạo Nhật Bản đã
không cân nhắc một cách nghiêm túc đến việc đầu hàng cho đến tận ngày đó. Đầu
hàng vô điều kiện (điều mà phe Đồng Minh yêu cầu) là một viên thuốc đắng. Hoa Kỳ
và Anh Quốc khi đó đã đang tổ chức những phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh ở
châu Âu. Sẽ thế nào nếu như họ quyết định đưa Thiên Hoàng Nhật Bản – vốn được
coi như thánh sống – ra trước tòa? Sẽ thế nào nếu họ phế truất Thiên Hoàng và
thay đổi hoàn toàn hình thức chính quyền? Kể cả khi tình hình trong mùa hè năm
1945 đã rất tồi tệ, thì các nhà lãnh đạo Nhật Bản vẫn không sẵn sàng cân nhắc
việc từ bỏ truyền thống, tín ngưỡng, hay lối sống của họ. Cho đến ngày 9 tháng
8. Chuyện gì đã có thể xảy ra để làm họ phải đổi ý một cách bất ngờ và quyết
đoán như vậy? Điều gì đã khiến họ phải ngồi xuống và họp bàn một cách nghiêm túc
về việc đầu hàng lần đầu tiên sau 14 năm chiến tranh?
Điều đó không thể nào là Nagasaki. Vụ ném bom Nagasaki diễn
ra vào cuối buổi sáng ngày 9 tháng 8, sau khi Hội đồng Tối cao đã bắt đầu họp
bàn chuyện đầu hàng, và tin về vụ ném bom chỉ đến tai các nhà lãnh đạo Nhật Bản
vào đầu buổi chiều – sau khi cuộc họp của Hội đồng Tối cao đã kết thúc trong bế
tắc và toàn bộ nội các đã được triệu tập để tiếp tục họp bàn. Chỉ dựa trên yếu
tố thời gian thôi, thì Nagasaki không thể nào là động cơ khiến họ đầu hàng.
Hiroshima cũng không phải là lý do hợp lý. Vụ ném bom
Hiroshima diễn ra trước đó 74 giờ – nghĩa là hơn ba ngày. Khủng hoảng kiểu gì
mà phải mất đến ba ngày mới phát tác? Đặc trưng của khủng hoảng là gây ra cảm
giác tai họa ngay trước mắt và mong muốn dữ dội phải hành động ngay lập tức.
Làm sao mà các nhà lãnh đạo Nhật Bản có thể cảm thấy rằng vụ Hiroshima đã châm
ngòi một cuộc khủng hoảng và rồi không họp bàn về vấn đề đó cho tới tận ba ngày
sau?
Tổng thống John F. Kennedy còn đang ngồi trên giường đọc báo
vào khoảng 8:45 sáng ngày 16 tháng 10 năm 1962 khi McGeorge Bundy, cố vấn an
ninh quốc gia của ông, chạy vào để báo rằng Liên Xô đang bí mật lắp đặt tên lửa
hạt nhân ở Cuba. Trong vòng hai giờ bốn mươi lăm phút, một ủy ban đặc biệt đã
được thành lập, các thành viên trong hội đồng đã được xét chọn, liên lạc, đưa đến
Nhà Trắng, và ngồi quanh bàn họp nội các để thảo luận xem nên làm gì.
Tổng thống Harry Truman đang đi nghỉ tại Independence,
Missouri vào ngày 25 tháng 6 năm 1950 khi Bắc Triều Tiên đưa quân vượt qua vĩ
tuyến 38 và xâm lược Nam Triều Tiên. Ngoại trưởng Acheson đã gọi ngay cho
Truman vào sáng thứ 7 đó để báo tin cho ông. Trong vòng 24 giờ, Truman đã bay nửa
vòng qua nước Mỹ và có mặt tại Nhà Blair[2] (Nhà Trắng khi đó đang được tu sửa)
cùng các cố vấn quân sự và chính trị hàng đầu để bàn tính nên làm gì tiếp theo.
Thậm chí Tướng George Brinton McClellan – tổng tư lệnh Binh
đoàn Potomac thuộc quân miền bắc vào năm 1863 trong thời Nội Chiến Mỹ, người mà
Tổng thống Lincoln nhận xét một cách đáng buồn rằng “Anh ta là người chậm chạp”
– cũng chỉ mất 12 giờ để phản ứng sau khi thu giữ được một bản quân lệnh của Tướng
Robert E. Lee về việc xâm lược Maryland.
Những vị lãnh đạo này đều đã phản ứng bởi nhu cầu cấp bách
mà một cuộc khủng hoảng tạo ra – như các lãnh đạo của bất kỳ quốc gia nào cũng
sẽ phản ứng. Họ đều có những bước đi quyết đoán trong một khoảng thời gian rất
ngắn. Làm thế nào có thể lắp ghép cách hành xử này với phản ứng của những nhà
lãnh đạo Nhật Bản? Nếu Hiroshima thực sự châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng mà
cuối cùng đã buộc Nhật Bản phải đầu hàng sau 14 năm chiến tranh, thì sao họ lại
phải mất đến 3 ngày mới cùng họp mặt để bàn về nó?
Có người có thể lập luận rằng sự trì hoãn này là hoàn toàn hợp
lý. Có lẽ họ đã chỉ nhận thức được tầm quan trọng của vụ ném bom này một cách
chậm rãi. Có lẽ họ chưa biết đó là vũ khí hạt nhân và khi đã biết và đã nhận ra
tác động khủng khiếp của loại vũ khí này, thì họ đã tự nhiên kết luận rằng họ
phải đầu hàng. Không may thay, cách lý giải này không phù hợp với các bằng chứng.
Trước hết, tỉnh trưởng Hiroshima đã báo cáo cho Tokyo vào
ngay ngày Hiroshima bị ném bom rằng khoảng một phần ba dân số thành phố đã bị
giết trong vụ tấn công và khoảng hai phần ba thành phố đã bị phá hủy. Thông tin
này không hề thay đổi trong những ngày sau đó. Vậy nên kết quả cuối cùng của vụ
ném bom đã rõ ràng ngay từ đầu. Các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã biết tương đối rõ
hậu quả của vụ tấn công ngay từ ngày đầu tiên, vậy mà họ vẫn không phản ứng.
Thứ hai, báo cáo sơ bộ của nhóm điều tra của Lục quân (Nhật)
về vụ ném bom Hiroshima, bản báo cáo rất chi tiết về chuyện đã xảy ra ở đó, đã
không được trình nộp cho đến ngày 10 tháng 8. Nói cách khác, bản báo cáo này đã
không được đưa đến Tokyo cho đến sau khi đã có quyết định đầu hàng. Mặc dù họ
đã báo cáo bằng miệng (cho quân đội) về vụ đánh bom vào ngày 8 tháng 8, song vẫn
không có chi tiết về vụ ném bom này cho đến hai ngày sau. Do đó, đưa ra quyết định
đầu hàng không phải xuất phát từ sự sợ hãi sâu sắc trước nỗi kinh hoàng ở
Hiroshima.
Thứ ba, quân đội Nhật Bản có hiểu, ít nhất là một cách sơ
sài, vũ khí hạt nhân là gì. Nhật Bản cũng có một chương trình vũ khí hạt nhân.
Một vài quân nhân đã viết trong nhật ký của họ rằng một quả bom nguyên tử đã hủy
diệt Hiroshima. Tướng Anami Korechika, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, thậm chí đã
tham vấn với người đứng đầu chương trình vũ khí hạt nhân của Nhật Bản vào tối
ngày 7 tháng 8. Vì vậy cho rằng các nhà lãnh đạo Nhật Bản không biết gì về vũ
khí hạt nhân là không hợp lý.
Cuối cùng, một dữ kiện khác về chuyện thời gian cho thấy một
vấn đề rất lớn. Ngày 8 tháng 8, Ngoại trưởng Togo Shigenori đã đến gặp Thủ tướng
Suzuki Kantaro và yêu cầu triệu tập Hội đồng Tối cao để họp bàn về vụ ném bom
Hiroshima, nhưng các thành viên trong Hội đồng đã từ chối. Vậy là cuộc khủng hoảng
đã không lớn lên từng ngày cho đến khi bùng phát toàn diện vào ngày 9 tháng 8.
Bất kỳ cách lý giải nào về những hành động của các lãnh đạo Nhật Bản dựa trên
cơ sở cơn “sốc” từ vụ ném bom Hiroshima phải lý giải được vì sao họ đã cân nhắc
họp mặt vào ngày 8 tháng 8 để bàn về vụ ném bom, quyết định rằng nó là không
quan trọng, và rồi đột nhiên quyết định họp bàn chuyện đầu hàng ngay ngày hôm
sau. Hoặc là tất cả bọn họ đều bị chung một dạng bệnh tâm thần phân liệt tập thể
nào đó, hoặc là một sự kiện nào khác mới thực sự là động cơ để họ bàn tính chuyện
đầu hàng.
Quy mô
Xét về mặt lịch sử, việc sử dụng bom nguyên tử có thể được
xem như sự kiện riêng lẻ quan trọng nhất trong cuộc chiến. Tuy nhiên, nếu xét từ
quan điểm của Nhật Bản tại thời điểm đó, có thể không dễ gì phân biệt được vụ
ném bom nguyên tử với những sự kiện khác. Sau cùng thì đâu dễ gì phân biệt được
một hạt mưa giữa một cơn giông bão.
Mùa hè năm 1945, Không lực Lục quân Hoa Kỳ đã thực hiện một
trong những chiến dịch hủy diệt thành thị dữ dội nhất trong lịch sử thế giới.
Sáu mươi tám thành phố của Nhật Bản đã bị không kích và tất cả đều bị hủy diệt
một phần hoặc toàn bộ. Ước tính khoảng 1,7 triệu người đã mất nhà cửa, 300.000
người chết, và 750.000 người bị thương. Sáu mươi sáu trong tổng số những vụ tấn
công đó được thực hiện bằng bom thông thường, hai vụ bằng bom nguyên tử. Sự hủy
diệt từ những vụ tấn công thông thường là rất lớn. Hết đêm này qua đêm khác, suốt
cả mùa hè, các thành phố đều chìm trong khói lửa. Giữa cơn hủy diệt nhiều như
thác đổ như vậy, sẽ chẳng đáng ngạc nhiên nếu một vụ tấn công đơn lẻ nào đó
không gây được ấn tượng gì nhiều – kể cả nếu nó được thực hiện bằng một loại vũ
khí mới đáng chú ý nào đó.
Một máy bay ném bom B-29 xuất phát từ quần đảo Mariana có thể
mang theo khoảng 16.000 đến 20.000 pound[3] bom, tùy thuộc vào vị trí mục tiêu
và cao độ tấn công. Một vụ không kích điển hình thường cần đến 500 đợt máy bay
ném bom. Điều này nghĩa là trong một cuộc không kích thông thường sẽ có khoảng
4 – 5 kiloton bom được thả xuống mỗi thành phố. (Một kiloton tương đương với một
ngàn tấn và là đơn vị tiêu chuẩn để đo sức công phá của vũ khí hạt nhân. Sức
công phá của quả bom được thả xuống Hiroshima là 16,5 kiloton, của quả bom được
thả xuống Nagassaki là 20 kiloton). Do việc sử dụng nhiều quả bom sẽ phân bổ sự
hủy diệt ra đều hơn (và do đó sẽ hiệu quả hơn), trong khi một quả bom duy nhất,
dù mạnh hơn, sẽ lãng phí phần lớn sức công phá ở khu vực trung tâm vụ nổ – trên
thực tế là làm cho đống đổ nát bị bật lại – thì có thể lập luận rằng một số vụ
không kích bằng bom thông thường đã đạt đến mức độ hủy diệt gần bằng hai vụ ném
bom nguyên tử.
Vụ không kích thông thường đầu tiên, diễn ra vào đêm 9-10
tháng 3 tại Tokyo, đến nay vẫn là vụ tấn công có mức độ hủy diệt lớn nhất nhằm
vào một thành phố trong lịch sử chiến tranh. Khoảng 16 dặm vuông[4] diện tích
thành phố đã bị phá hủy. Khoảng 120.000 người Nhật đã thiệt mạng – con số
thương vong lớn nhất trong số bất kỳ vụ không kích đô thị nào.
Vì cách kể lại câu chuyện mà chúng ta thường tưởng tượng rằng
vụ ném bom Hiroshima có hậu quả kinh khủng hơn rất nhiều. Chúng ta tưởng tượng
rằng số người bị giết trong vụ đó là cao chưa từng có. Nhưng nếu thống kê số
người thiệt mạng trong số tất cả 68 thành phố bị không kích vào mùa hè năm
1945, thì bạn sẽ thấy Hiroshima xếp thứ hai về số thường dân thiệt mạng. Nếu thống
kê theo số diện tích bị phá hủy, thì bạn sẽ thấy Hiroshima xếp thứ tư. Nếu thống
kê số phần trăm diện tích thành phố bị phá hủy, thì Hiroshima xếp thứ 17. Rõ
ràng là Hiroshima nằm trong phạm vi phạm vi mức độ hủy diệt của những vụ không
kích thông thường diễn ra trong mùa hè năm đó.
Từ quan điểm của chúng ta, vụ Hiroshima có vẻ đặc biệt, phi
thường. Nhưng nếu bạn đứng vào vị trí của những nhà lãnh đạo Nhật Bản trong khoảng
ba tuần trước vụ ném bom Hiroshima, thì toàn cảnh sẽ khác đi đáng kể. Nếu bạn
là một thành viên chủ chốt trong chính phủ Nhật Bản vào cuối tháng 7 và đầu
tháng 8, trải nghiệm của bạn về những vụ ném bom thành thị sẽ như thế này: Sáng
ngày 17 tháng 7, bạn sẽ thức dậy và nhận được báo cáo rằng trong đêm qua bốn
thành phố đã bị tấn công: Oita, Hiratsuka, Numazu, và Kuwana. Trong số này,
Oita và Hiratsuka bị hủy diệt hơn 50%. Kuwana bị hủy diệt hơn 75% và Numazu còn
phải chịu hậu quả nặng nề hơn, với khoảng 90% thành phố bị san phẳng.
Ba ngày sau đó bạn tỉnh dậy và biết tin rằng ba thành phố nữa
đã bị tấn công. Fukui bị hủy diệt hơn 80%. Một tuần sau đó, thêm ba thành phố nữa
bị tấn công trong đêm trước đó. Hai ngày sau, thêm sáu thành phố bị tấn công
trong một đêm, trong đó Ichinomiya bị hủy diệt 75%. Vào ngày 2 tháng 8, bạn đến
phòng làm việc và nhận được báo cáo rằng thêm bốn thành phố nữa đã bị tấn công.
Và trong những báo cáo này sẽ bao gồm thông tin rằng Toyama (xấp xỉ kích thước
Chattanooga, Tennessee vào năm 1945) đã bị hủy diệt 99,5%. Gần như toàn bộ
thành phố đã bị san thành bình địa. Bốn ngày sau đó và thêm bốn thành phố nữa bị
tấn công. Ngày 6 tháng 8, chỉ có một thành phố, Hiroshima, bị tấn công nhưng
các báo cáo viết rằng thiệt hại là rất lớn và có một loại bom mới được sử dụng.
Một vụ tấn công mới này có thể nổi bật hơn là bao so với hàng loạt những vụ ném
bom thành thị đã diễn ra suốt hàng tuần trước đó?
Trong ba tuần trước khi Hiroshima bị ném bom, 26 thành phố
đã bị Không lực Lục quân Hoa Kỳ tấn công. Trong số đó, tám thành phố – gần một
phần ba tổng số – bị tàn phá ở mức độ ngang bằng hay thậm chí là hơn cả
Hiroshima (tính theo tỉ lệ phần trăm diện tích thành phố bị hủy diệt). Việc Nhật
Bản có đến 68 thành phố bị phá hủy trong mùa hè năm 1945 đưa ra một thách thức
lớn cho những người cho rằng vụ ném bom Hiroshima là nguyên nhân Nhật Bản đầu
hàng. Câu hỏi là: Nếu họ đầu hàng vì một thành phố bị phá hủy, thì tại sao họ
không đầu hàng khi 66 thành phố kia bị phá hủy?
Nếu các lãnh đạo Nhật Bản định đầu hàng vì Hiroshima và Nagasaki,
bạn sẽ cho rằng họ cũng quan tâm đến các vụ ném bom thành thị nói chung, rằng
những vụ tấn công nhằm vào các thành phố của họ đã gây áp lực buộc họ phải đầu
hàng. Nhưng có vẻ không phải như vậy. Hai ngày sau khi Tokyo bị không kích, cựu
Ngoại trưởng Shidehara Kijuro đã bày tỏ một quan điểm mà dường như cũng được rất
nhiều thành viên cấp cao trong chính phủ Nhật Bản lúc bấy giờ chia sẻ.
Shidehara nói rằng “người dân sẽ quen dần với việc ngày nào cũng phải hứng chịu
bom. Dần dần tinh thần đoàn kết và quyết tâm của họ sẽ mạnh mẽ hơn nữa”. Trong
một lá thư gửi một người bạn ông viết rằng quan trọng là người dân phải cam chịu
khổ cực vì “kể cả nếu hàng trăm ngàn người không trực tiếp tham chiến bị giết,
bị thương, hoặc chết đói, kể cả nếu hàng triệu tòa nhà bị phá nát hay thiêu hủy”,
thì vẫn cần có thêm thời gian vì mục đích ngoại giao. Cần phải nhớ rằng
Shidehara là một nhân vật ôn hòa.
Những lãnh đạo ở cấp cao nhất trong chính phủ – trong Hội đồng
Tối cao – dường như cũng có thái độ như vậy. Mặc dù Hội đồng Tối cao đã bàn
tính đến tầm quan trọng của việc Liên Xô vẫn còn trung lập, song họ chưa hề thảo
luận kỹ lưỡng về tác động của những vụ ném bom thành thị. Trong những ghi chép
được lưu giữ lại, những vụ ném bom thành thị thậm chí còn không được nhắc đến
trong các cuộc thảo luận của Hội đồng Tối cao ngoại trừ hai lần: một lần được
nhắc đến vào tháng 5 năm 1945 và một lần trong cuộc họp bàn về nhiều vấn đề
trong đêm 9 tháng 8. Dựa trên các bằng chứng, thật khó có thể chứng minh được rằng
các lãnh đạo Nhật Bản cho rằng những vụ ném bom thành thị có ý nghĩa quan trọng
hơn so với những vấn đề cấp bách khác trong thời chiến.
Tướng Anami vào ngày 13 tháng 8 đã nhận xét rằng hai vụ ném
bom nguyên tử chẳng mấy đe dọa hơn những vụ ném bom thông thường mà Nhật Bản đã
phải chịu đựng hàng tháng trời. Nếu Hiroshima và Nagasaki chẳng tệ hại hơn những
vụ ném bom thông thường là mấy, và nếu các lãnh đạo Nhật Bản không cho rằng
chúng đủ quan trọng để mang ra thảo luận kỹ lưỡng, thì sao mà những vụ ném bom
xuống Hiroshima và Nagasaki có thể làm họ sợ đến mức đầu hàng được?
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét