Tác giả: NTDTV | Dịch giả: Daniel Nguyen
Giải mật lịch sử: Sự thảm khốc của chiến tranh biên giới Việt
-Trung và cái nhìn của nhân chứng người Trung Quốc
Cảnh tượng đầy thảm khốc của quân đội Trung Quốc sau một trận
đánh. (Ảnh mạng)
Gần đây, trên mạng có xuất hiện một bài viết tiết lộ về những
bí ẩn kinh hoàng đằng sau cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung đã xảy ra
cách đây hơn 30 năm, bài viết này còn nói rằng đây là “một cuộc chiến tranh tay
mơ nhất, tức tưởi nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)” từ lúc bắt đầu cầm
quyền cho đến nay. Sự thảm khốc của cuộc chiến này khiến người ta phải dựng tóc
gáy, đứng ở góc độ dân tộc Hoa Hạ mà nói: điều phẫn uất nhất là đã có hàng vạn
binh sĩ Trung Quốc phải đổ máu vì một trò đùa vớ vẩn do ĐCSTQ phát động.
ĐCSTQ giật dây chiến tranh vì muốn “dạy dỗ” Việt Nam
Bài viết nói rằng, từ sau năm 1949, ĐCSTQ đã có 4 lần phát động
các cuộc chiến tranh ra bên ngoài (chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh biên giới
Trung – Ấn, chiến tranh biên giới Trung – Xô, và chiến tranh Trung – Việt), đều
là những cuộc chiến không cần thiết. Nhìn từ góc độ quân sự cũng chẳng thấy
chút huy hoàng nào; nhìn từ góc độ chiến lược thì toàn đều là thất bại. Trong số
đó thì cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung (mà phía ĐCSTQ gọi là “cuộc phản
kích tự vệ đối với Việt Nam”) là một cuộc chiến đầy tức tưởi, tay mơ nhất của
ĐCSTQ từ khi bắt đầu nắm quyền.
Bài viết có nhắc đến chiến tranh biên giới Việt – Trung là một
cuộc chiến do ĐCSTQ phát động nhắm vào Việt Nam, do Đặng Tiểu Bình đã tìm cách ép
buộc người lãnh đạo đương thời của Trung Quốc là Hoa Quốc Phong phải đồng ý. Mục
đích quân sự là nhằm cứu vớt cho chính quyền Khmer đỏ, ép Việt Nam phải rút
quân khỏi Campuchia. Mục đích chính trị là “dạy dỗ” chính phủ thân Liên Xô của
Việt Nam một “bài học”, ngoài ra thì Phó Chủ tịch họ Đặng của Quân ủy Trung
ương cũng có mục đích của riêng mình, tức là kiểm tra thử xem bản thân mình có
khả năng huy động quân đội được hay không, bởi vì Đặng phó Chủ tịch đã quyết định
là sẽ thay thế Hoa Quốc Phong để trở thành người lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội ĐCSTQ tiến hành một cuộc
đột kích nhắm vào Việt Nam từ 500 km chiến tuyến. Tuy phía Việt Nam có chuẩn bị
nhưng sự chuẩn bị này vốn không đầy đủ, họ cho rằng quy mô của ĐCSTQ cùng lắm
cũng giống như trận đánh nhau với Ấn Độ. Nhưng quả thực, họ không ngờ rằng lực
lượng lần này lại lớn đến như vậy, hỏa lực lại hung hăng đến như vậy. Phía Việt
Nam có 4 sư đoàn chủ yếu (sư đoàn số 3, sư đoàn 346, sư đoàn 316A, sư đoàn 345)
và một số dân quân địa phương đối kháng với quân Trung Quốc.
Sau khi khai chiến, quân Trung Quốc liên tiếp giành được một
số tỉnh thành của Việt Nam, Hà Nội ngay sau đó đã lâm vào hỗn loạn. Ngày 5
tháng 3, ĐCSTQ lên tiếng rút quân. Chính phủ Việt Nam phát động lệnh tổng động
viên trên toàn quốc. Ngày 16 tháng 3, ĐCSTQ rút toàn bộ quân về nước, trận chiến
này kết thúc giai đoạn một.
Thương vong của trận chiến này là bao nhiêu, cả hai phía đều
không đưa ra con số cụ thể. Chiến tranh kết thúc, nội bộ những người như Diệp
Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm có nói miệng với nhau là phía Trung Cộng chết 48.000 người,
Việt Nam cũng là 48.000 người. Nhưng phía Trung Quốc đều là những thanh niên
vai dài sức rộng (bao gồm cả những dân binh phụ trách vận chuyển), Việt Nam thì
bao gồm những dân quân (có cả phụ nữ, người già,…), hàm ý là được chẳng bù với
mất.
Sự ngu xuẩn của ĐCSTQ và sinh mạng của hàng vạn binh sĩ
Đây là một trận chiến vô cùng thảm khốc, dùng từ máu chảy
thành sông để miêu tả thật không khoa trương chút nào. Quân đội Việt Nam chống
cự một cách ngoan cường vượt qua cả mọi dự tính. Sự thảm khốc này bắt nguồn từ
một số nguyên nhân sau đây:
1. ĐCSTQ đã sử dụng chiêu bài chiến thuật cũ “biển người”
trong cuộc chiến tranh liên Triều để xung kích trận địa của đối phương, quân số
vượt xa những người Việt Nam vốn quen với mưa tên bão đạn. Trong thời gian Cách
Mạng Văn Hóa, quân đội Trung Cộng chỉ quen với bài vở chính trị, rất ít khi huấn
luyện thao trường, quân lính không biết đánh trận, sĩ quan không biết chỉ huy,
vả lại còn không được huấn luyện chiến đấu ở các địa hình đồi núi, rừng sâu, thời
gian ban đêm…, tăng thiết giáp và bộ binh không thể hiệp đồng tác chiến, vì vậy
phải trả một cái giá nặng nề.
Ngoài ra, có một trưởng thôn ở vùng biên cảnh Vân Nam vào
năm 1982 đã kể cho tác giả bài viết một câu chuyện. Lúc chiến tranh bắt đầu,
phía Trung Quốc dưới sự yểm trợ của hỏa pháo tiến công thẳng về phía trận địa
Việt Nam, tiếng súng hiệu xung phong vừa nổ, binh sĩ xông lên phía trước, một
loạt khoảng hơn 100 người lúc trở về chỉ còn lại 20 – 30 người. Một loạt khác
xông lên lại hy sinh đến gần hết. Cuối cùng khi đánh lên núi, phát hiện trên ấy
chỉ có hơn 20 người lính Việt Nam. Người
thôn trưởng ấy nói rằng, lúc đó ông ta tổ chức dân binh đi khuân vác, khắp núi
đều là thi thể của binh lính Trung Quốc, thảm lắm!
2. Quân đội Trung Quốc sử dụng binh chủng cơ giới để tiến
hành xâm nhập bao vây nhưng lại xem nhẹ những cơn mưa rừng nhiệt đới Bắc Bộ Việt
Nam, dạng khí hậu này hoàn toàn không thuận lợi cho các binh chủng cơ giới tác chiến.
Phía quân đội Việt Nam có nhiều vũ khí chống tăng nhờ viện trợ từ Liên Xô và
chiếm dụng từ quân Mỹ nên rất dễ bắn thủng các xe tăng của quân đội Trung Quốc,
có một số xe tăng khi bị đột kích thì bộ binh lại theo không kịp, xe tăng bị
phá hủy rất nhiều, con số này lên đến hơn 200 chiếc.
Cách làm ngu xuẩn nhất là lúc bộ binh phối hợp với binh chủng
thiết giáp để tiến hành bao vây, nhằm tránh bị rơi từ trên xe tăng xuống, binh
lính đã cột chặt balo của mình vào xe tăng. Kết quả là khi gặp phải phục kích
không thể nhảy xuống để tác chiến kịp thời mà lại trở thành miếng thịt nướng
trên vỉ, có nhiều binh lính chưa kịp gỡ dây ra đã bị bắn chết. Có chiếc xe tăng
bị phá hủy bên trên còn buộc chặt 4-5 người lính bộ binh.
Ngoài ra, quân Việt Nam còn bố trí mìn ở khắp nơi, thiết bị
dò mìn của quân đội Trung Quốc không đủ, lúc khẩn cấp trên chiến trường phải
dùng chính cơ thể con người để dò mìn, con số hi sinh rất lớn. Đồng thời, lúc
xuất hiện tình trạng pháo binh bắn nhầm khiến cho binh lính bị thương, cũng không
đủ nhân viên y tế để tiến hành cứu chữa, số người chết và bị thương cũng rất
nhiều.
3. So với người Việt
Nam, quân Trung Quốc thiếu ý chí chiến đấu hơn, dẫn đến thiệt hại rất lớn. Điều
này đã được báo cáo trong bản “Báo cáo tình hình chiến trường”, có lúc quân
Trung Quốc bắt được tù binh Việt Nam, không ngờ rằng người tù binh này lại nhân
lúc sơ hở liền giật quả lựu đạn giắt trên lưng lính Trung Quốc rồi cả hai “đồng
quy dĩ tận”. Có trường hợp người lính Việt Nam bị thương đứt cả cánh tay, quân
Trung Cộng cõng anh ta, anh ta lại dùng răng cắn đứt tai người lính ấy. Dân
quân địa phương của Việt Nam cũng có rất nhiều phụ nữ bị bắt làm tù binh, chính
vì vậy nên lính áp giải rất coi thường, không hề cảnh giác, kết quả là bị nữ
binh này giật súng tiểu liên bắn chết đến bảy tám mạng lính. Sau đó, bên trên hạ
lệnh: không bắt tù binh nữa, tất cả đều bắn chết.
Việt Nam là xứ sở “toàn dân giai binh” (ý nói toàn dân đều
là binh lính). “Báo cáo tình hình chiến trường” có nêu một trường hợp, bộ đội
Trung Quốc lúc đang hành quân, đột nhiên có quả đạn cối rơi vào giữa hàng ngũ.
Họ liền phái quân trinh sát đi điều tra, chỉ tìm được một vài người phụ nữ đang
lao động, không hề thấy bất cứ binh lính nào. Bộ đội tiếp tục tiến lên, lại có
đạn cối rơi đến, thương vong rất lớn. Sau đó mới phát hiện ra, những người phụ
nữ ấy chính là dân quân, họ đào hố giấu khẩu súng cối dưới đất, rồi lấy nón lá
che lên, nhân lúc quân địch không chú ý thì khai hỏa, lúc quân địch đến trinh
sát thì giấu vũ khí đi, tiếp tục làm lụng như không có việc gì. Sau đó bên trên
lại hạ lệnh, bất kể là già trẻ gái trai, nhất loạt đều giết hết.
Một người bạn thời tiểu học của tác giả từng là một đại đội
trưởng trong trận chiến này, ông ta sau khi trở về đã từng kể lại với tác giả,
bởi vì quân đội Trung Quốc thương vong quá lớn, bị giết đến phờ người, bên trên
hạ lệnh thực hiện tiêu chí “ba sạch” (giết sạch, cướp sạch, đốt sạch), sự tàn
khốc ấy khiến người ta rất khó hình dung, mức độ phá hoại vượt xa so với những
cuộc oanh tạc không kích của quân Mỹ năm xưa. Chỉ có khác biệt là không có cưỡng
bức phụ nữ như quân đội Nhật Bản thời thế chiến II.
“Báo cáo tình hình chiến trường” cũng báo cáo tình huống
tương tự, ví như mỏ than của Việt Nam chủ yếu tập trung ở Lạng Sơn, được viện
trợ rất nhiều từ phía ĐCSTQ và Liên Xô, sau khi quân đội Trung Quốc rút đi thì
đã cho nổ toàn bộ. Nhà cửa của dân chúng đều đốt sạch, toàn bộ gia súc gia cầm
gà, vịt, bò, heo… đều giết thịt hết. Đánh chiếm được một thành phố rồi không chỉ
cho nổ hết tất cả nhà cửa, đến cả cột ăng ten cũng bị phá hủy, tất cả những thứ
có thể lấy đi – kể cả thanh ray đường sắt, cũng bị gỡ ra.
4. Vùng núi phía Bắc Việt Nam có rất nhiều hang động thiên
nhiên, lại thêm nhiều công sự được xây dựng qua mấy chục năm, dường như là hang
thông với hang, giống như lối đi địa đạo. Quân Việt Nam lúc chống không nổi, lại
ẩn mình hết vào những hang núi này, đợi lúc quân đội Trung Quốc đi qua lại chui
ra đánh du kích, giết chết nhân viên hậu cần của quân Trung Quốc, gây khó khăn
cho công tác hậu cần của phe địch. Đồng thời bộ chỉ huy của quân Việt Nam cũng
rất khó bị phát hiện. Sau đó, quân Trung Quốc chỉ còn cách cho nổ tất cả những
hang động có khả năng trở thành chỗ ẩn nấp cho quân Việt Nam.
Ngoài ra, quân đội Trung Quốc mật độ rất lớn, đến mấy trăm
nghìn quân, phân bố tại một chiến khu chật hẹp, những con đường trọng yếu đều
chen chúc đầy quân lính, nội bộ rất dễ phát sinh xung đột. Người bạn học của
tác giả nói rằng, buổi tối dựng trại, xung quanh đều là quân mình, lúc này là
thời điểm mà đặc công Việt Nam (biết nói tiếng Hoa) xuất hiện; họ trà trộn vào
quân doanh rồi tiến hành đột kích dẫn đến thương vong và hỗn loạn rất lớn. Khi
nhân viên chỉ huy của một đơn vị đã hi sinh lại phải điều một người khác đến,
người chỉ huy mới này không quen với đội quân cũ nên rất khó chỉ huy, do đó sự
hỗn loạn này cũng là một trong những nguyên nhân thất bại của quân đội Trung Quốc.
Sĩ khí sụt giảm
Có một vài đơn vị đã bị tụt sĩ khí. Tiểu đoàn 448 thuộc
trung đoàn 50 lúc đụng phải quân Việt Nam, bị chặn mất đường rút lui, bộ chỉ
huy vô trách nhiệm đã ra quyết định cho các đơn vị tiến hành phá vòng vây một
cách phân tán. Kết quả là bị quân Việt Nam chia cắt để bao vây, tổng thiệt hại
lên đến 542 người, đánh mất 407 khẩu súng các loại, trong đó có hơn 200 người bị
bắt, bao gồm cả tham mưu trưởng, giáo quan huấn luyện và hơn 10 đại đội trưởng.
Có trường hợp sĩ quan dẫn nguyên một đại đội ra đầu hàng tập
thể. Còn có một đại đội vừa đụng phải khoảng chừng hơn 20 bộ đội Việt Nam thì
viên chỉ huy đã lập tức rời bỏ hàng ngũ chạy trốn về, đã vậy lại còn tự khiến
mình bị thương để được đưa vào bệnh viện, binh lính dưới quyền anh ta thì bị diệt
sạch.
Lấy chiến tranh để “luyện binh” và để diễn trò hề
Tác giả bày tỏ rằng chỉ nên sử dụng quân đội để bảo vệ quốc
gia, đồng thời phản đối việc dùng sinh mệnh và máu huyết để đạt được bất cứ mục
đích nào.
Nhưng trên thực tế, quân đội ĐCSTQ đến ngay cả cái mục đích
ban đầu đặt ra cho cuộc chiến cũng không đạt được. “Tiểu đệ” của ĐCSTQ – chính quyền diệt chủng
Khmer Đỏ Pol Pot Iengsari vẫn bị quân đội Việt Nam đánh bại. Vấn đề ở đây là,
những người lính của Trung Quốc có đáng phải đổ máu vì một chính quyền như thế
hay không? Sau trận chiến này, làn sóng bài Hoa ở Việt Nam lại ùn ùn dâng cao,
quan chức gốc Hoa bị cách chức, thương nhân người Hoa bị ép phải ngừng kinh
doanh, trường học của người Hoa bị đóng cửa, một lượng lớn người Hoa bị xua đuổi,
bị ép phải lên những con thuyền cũ rách lênh đênh ra giữa biển khơi, số người
chết đếm không xuể.
Trận chiến này của ĐCSTQ không hề gây dựng được một chút “uy
danh” nào, ngược lại còn bộc lộ ra rất nhiều vấn đề. Bộ Trưởng Quốc phòng Đài
Loan đã từng nói: “Nhìn vào biểu hiện của quân đội Trung Cộng tại chiến trường
Việt Nam, việc bảo vệ Đài Loan của chúng ta là không thành vấn đề!”.
Sau trận chiến, Đặng Tiểu Bình đã thành công trong việc
giành lại quyền hành từ hệ thống đảng – chính – quân, Hoa Quốc Phong bị ép phải
xuống đài. Nhưng từ đây, cuộc chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm lại sẽ mở
màn, biên giới Việt– Trung lại trở thành thao trường luyện binh, các đơn vị dã
chiến lần lượt ra trận. Trên thế giới có bao nhiêu quốc gia lại dùng chiến
tranh làm thao trường? Đó không phải là một trò đùa hay sao?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét