Nhiều người cho rằng tuy Hoa Kỳ quyết định xoay trục về Á Châu, nhưng cũng khó mà ngăn chặn được Trung Quốc (TQ) vì cán cân lực lượng quân sự Mỹ - Trung nay đã thay đổi: hải và không quân TQ đã rất mạnh so với hai thập niên trước. Đây là một đề tài cho các nhà chiến lược nghiên cứu.
Một điều chắc chắn là ngày nay quân lực Mỹ không còn độc quyền
ở Thái Bình Dương, cũng không thể dễ dàng chớp nhoáng đánh bại TQ.
Chính Báo cáo 2014 của Bộ Quốc phòng Mỹ gửi Quốc hội Hoa Kỳ
(viện dẫn trên đây) đã phân tích rõ ràng khả năng quân sự hiện nay của TQ như
thế nào.
Với sức mạnh ấy Bộ trưởng Quốc phòng Trung quốc, Tướng Thường
Vạn Toàn đã nói thẳng với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel khi ông này viếng
thăm Bắc Kinh (tháng 4, 2014):
“TQ sẽ không thỏa hiệp, không nhượng bộ, không thương thuyết
về tranh chấp đối với Nhật Bản."
“Quân đội TQ có thể tập hợp ngay tức khắc khi nào có lệnh,
có thể chiến đấu trong bất cứ mặt trận nào, và sẽ thắng.”
Tuy nhiên, dù Bắc Kinh tự tin đến mức nào về kinh nghiệm hải
chiến và không chiến thì quân đội TQ cũng không thể nào so sánh được với quân đội
Nhật Bản (chứ đừng nói tới Mỹ).
Mọi người đều đã biết về “Nhật – Nga chiến kỷ” đầu thế kỷ
20, rồi Nhật chiến đấu với Mỹ và đồng minh trong Thế Chiến 2.
Cán cân lực lượng Thái Bình Dương
Về cán cân lực lượng ở Thái Bình Dương thì khoảng cách hiện
nay giữa Mỹ - Trung đã gần lại rất nhiều, nhưng như cựu Bộ trường Quốc phòng Mỹ,
ông Leon Panetta đã tuyên bố:
“Tới năm 2020 Hải quân Mỹ sẽ hoàn tất việc tái phối trí lực
lượng giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương: lực lượng này hiện được dàn ra khoảng
50/50 giữa hai đại dương, nhưng sẽ chuyển sang 60/40 – bao gồm sáu hàng không mẫu
hạm, phần lớn những tuần dương hạm, khu trục hạm, tầu tác chiến vùng duyên hải
và tầu ngầm.”
Image copyright AF
Image caption Hàng không mẫu hạm USS John C Stennis có mặt
tại Biển Philippines - hình chụp hôm 18/6/2016
Và ngoài cán cân vể sức mạnh vũ trang lại còn cán cân về
kinh nghiệm. Dù khoảng cách về thiết bị của hai bên càng ngày càng gần lại,
nhưng khoảng cách về kinh nghiệm chiến đấu thì còn quá xa nhau. Có vũ khí là một
chuyện, sử dụng nó như thế nào lại là chuyện khác.
Sử dụng thì đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm thực tế chứ
không phải chỉ kế hoạch để chiến đấu hay đánh trận giả ‘war games.’
Đối với Mỹ thì có thể nói là ngoài kinh nghiệm chiến đấu
trên không, trên bộ và dưới biển trong Thế chiến I và II, và từ sau Thế Chiến
II, tức là trong 70 năm qua, binh lính và tướng lãnh Mỹ vẫn tiếp tục chuẩn bị
cũng như chiến đấu: chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam, Iraq, Afghanistan, Syria.
Đây là không kể những phi vụ oanh tạc như ở Kossovo hay chống ISIL ở toàn vùng
Trung Đông.
Như vậy, họ đã thực tập và thu thập được một số lượng lớn về
kinh nghiệm cả về chiến tranh quy ước lẫn du kích. Thêm vào đó là kinh nghiệm về
vũ khí.
Thí dụ như sau khi B-52 bị bắn rơi ở chiến trường Việt Nam,
Bộ Quốc phòng đã cho nghiên cứu và cải tiến. Ngày nay không dễ mà hạ được loại
phi cơ này, chưa kể còn nhiều loại tối tân mới và đang sản xuất.
Kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc
Ngược lại với Mỹ, trên 60 năm qua, kinh nghiệm chiến đấu của
quân đội Trung Quốc rất là giới hạn:
Lục quân: sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1952), quân đội
TQ chưa hề có kinh nghiệm với những trận chiến lớn. Kinh nghiệm chỉ gồm việc
pháo kích vào eo biển Đài Loan (1954/1955 và 1958), xung đột tranh chấp lai rai
ở biên giới với Ấn độ (1962), với Liên Xô (1969), và xung đột biên giới với Việt
Nam vào đầu 1979 (3 tuần và 6 ngày).
Không quân: kinh nghiệm chỉ gồm mấy trận không chiến với
không quân Đài Loan cách đây 57 năm. Ngày 22/9/1958, 100 phi cơ MiG của TQ đụng
độ với 32 phi cơ F-86s của Đài Loan. Tên lửa Sidewinders (do Mỹ cung cấp) giúp
phi công Đài Loan bắn rơi nhiều máy bay MiG của TQ.
Hải quân: kinh nghiệm của Hải quân TQ về hải chiến là rất
khiêm nhượng vì chưa tham gia trận chiến lớn nào, chỉ đụng độ với Hải quân VNCH
đầu 1974, và tấn công lực lượng hải quân Việt Nam năm 1988 tại đảo Gạc Ma (Trường
Sa). Năm 1974, tuy chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng chịu tổn thất lớn: nhiều sĩ
quan tham mưu của trận chiền đã tử trận khi Hộ tống hạm Kronstad 274 bị Hải
quân VNCH bắn chìm, ba chiến hạm khác bị hư hại nặng.
Công tác hậu cần, tiếp vận và điều hợp: là những khía cạnh rất
khó khăn trong các trận lớn, đặc biệt là hải chiến. Giao tranh trên biển rất
khó khăn trong nhiều tình huống. Ngoài yếu tố thời tiết (thay đổi bất chợt),
công tác hậu cần và tiếp vận đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm. Bản thân chúng tôi
khi có dịp tới thăm viếng căn cứ của Đệ Thất Hạm Đội ở Honolulu đã được cắt
nghĩa sơ qua (trong phòng tình hình) về những đòi hỏi đối với một hàng không mẫu
hạm.
Nghe viên sĩ quan chỉ vào các bản đồ rồi thuyết trình, chúng
tôi thấy nó hết sức phức tạp. Nguyên việc cung cấp thức ăn, vệ sinh, sức khỏe,
y tế cho mấy nghìn binh sĩ trên một chiến hạm là đã đặt ra nhiều vấn đề. Rồi
công tác bảo trì phản lực cơ và các loại khí giới trên tầu, đến những công tác
thông tin, trinh thám. Khi thuyết trình viên nói đến công tác điều hợp (các
binh chủng với nhau) trong một trận hải chiến thì chúng tôi thấy quá là khó
khăn, phức tạp. Đây là chưa nói đến những dịch vụ của các loại tầu ngầm nguyên
tử, lòng vòng thật sâu và thật lâu ở dưới mặt biển.
Tinh thần binh sĩ: đây có lẽ là một trong những khía cạnh
khó khăn nhất đối với người lính TQ. Chính sách một con/mỗi gia đình đã đưa tới
tình trạng là cha mẹ luôn cố gắng để có con trai, và khi có được một cậu ấm thì
biến thành hoàng tử, được bốn ông bà (hai bên nội, ngoại) và bốn cha mẹ thường
chú ý, chiều chuộng. Việc này ảnh hưởng không ít tới tinh thần người thanh
niên. Tình huống ‘một con’ lại còn làm cho cha mẹ thật miễn cưỡng khi phải để
cho con nhập ngũ, huống chi là tham chiến.
Còn đối với Hoa Kỳ thì trong những thập niên qua, người lính
Mỹ ít khi nào được nghỉ ngơi. Có thể nói là ‘tình trạng sẵn sàng ứng chiến’
(status of readyness) luôn là một yếu tố quan trọng ưu tiên trong những kế hoạch
quân sự của Ngũ Giác Đài.
Những khó khăn lớn hiện nay của Trung Quốc
Ngoài việc không được trang bị với nhiều kinh nghiệm chiến đấu
trong 70 năm qua, Trung Quốc lại còn có nhiều vấn đề khác. Các nhà quan sát quốc
tế thường hay quan tâm đến sức mạnh kinh tế và quân sự của TQ, ít người để ý tới
những khó khăn đối nội, đối ngoại mà TQ phải trực diện.
Đây cũng là một đề tài nên được phân tích. Chúng tôi chỉ nêu
lên vài khía cạnh:
Về đối nội
Căng thẳng về vấn đề dân tộc thiểu số: sự căng thẳng còn bị
nặng nề thêm bởi những khó khăn về vấn đề đối với các dân tộc thiểu số, đặc biệt
là vấn đề Tây Tạng và Tân Cương trong những năm gần đây.
Môi trường băng hoại: là một vấn đề hiện ảnh hưởng tới người
dân nhiều nhất. TQ đã phải trả cái giá quá cao để sản xuất đủ hết mọi thứ với
giá thật rẻ, khống chế thị trường tiêu thụ trên toàn cầu. Người ta gọi TQ là
‘nhà máy sản xuất của thế giới.’ Nhà máy này phun khói ra làm đen tối cả bầu trời
Bắc Kinh, Thượng Hải giữa ban ngày như ta thường thấy trên tivi. Còn vấn đề các
chất thải kỹ nghệ hết sức độc hại, làm ô nhiễm cả đất, sông, biển.
Cái nghèo của người dân: về kinh tế ta thấy GDP của Trung Quốc
ngày nay đã đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau có Mỹ.
Nhưng đời sống của người dân còn thấp, vì đông dân, 1 tỷ 381
triệu, lợi tức bình quân đầu người của Trung Quốc mới chỉ tới $5,720 một năm
(2012), đứng khoảng thứ 120 trên thế giới, chỉ bằng 12% của Nhật ($47,870), 11%
của Mỹ ($52,340), 12% của Singapore ($47,210) và 58% của Malaysia ($9,820).
Số người nghèo tính theo chỉ tiêu quốc tế là có mức sống dưới
$2 một ngày còn tương đương gần một phần ba dân số (2009). Chi tiêu dưới $2 một
ngày là gồm tất cả mọi nhu cầu: ăn, ở, y tế, vệ sinh, giáo dục, giải trí, thờ
cúng tổ tiên).
Khoảng cách giàu - nghèo càng ngày càng cách xa: đây là khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị, giữa miền duyên hải và miền tây bắc lục địa.
Chỉ số Gini về mất cân bằng thu nhập càng cao thì khoảng
cách càng lớn. Chỉ số của TQ đã tăng từ 0.33 vào năm 1993 lên 0.42 năm 2006 và
còn đang tăng thêm. Sự kiện này càng ngày càng gây căng thẳng chính trị và xã hội.
Đây là chưa nói tới hiện tượng về ‘cái nghèo tâm lý’
(psychological poverty): ‘về tâm lý, người nghèo là những người cảm thấy mình
không được hưởng những gì mà những người khác trong xã hội đang được hưởng quá
nhiều.’
Ngày xưa, ngồi trong nhà lá, người nghèo chỉ so sánh mình với
hàng xóm. Ngày nay vì điện lực hóa nông thôn, lại có tivi, điện thoại lưu động
(rất rẻ ở TQ), người nghèo so sánh mình với những người khác ở thành thị, càng
thấy mình nghèo hơn nữa.
Sự lớn mạnh về quyền lực của các đại tập đoàn quốc doanh: có
lẽ vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị khó khăn nhất của Trung Quốc ngày nay là
sự lớn mạnh của những đại tập đoàn kinh tế, tài chính quốc doanh.
Nhưng các tập đoàn này đang thao túng về mọi lãnh vực. Về vấn
đề này, tờ New York Times xuất bản ngày 9 tháng 11, 2012 đã bình luận rằng nhiều
kinh tế gia Trung Quốc cho rằng những đại tập đoàn quốc doanh, đặc biệt là các
ngân hàng và những công ty dầu khí và viễn thông đã lớn quá mạnh đến độ có thể
làm tiêu tan tăng trưởng kinh tế, đe dọa cả ổn định chính trị. “Chẳng ai có điều
gì tốt để nói về những tập đoàn này,” ông Wang Yong, chủ tịch Ủy ban Giám Sát
và Quản lý Tài sản các Công ty Quốc Doanh đã công khai chỉ trích tại Quốc hội
Trung Quốc vào ngày 24 tháng 8, 2012.
Rồi khi khai mạc Đại hội Đảng, chính Chủ tịch Hồ Cẩm Đào,
trước khi về hưu và là người đã giúp cho những công ty này lớn mạnh trong vòng 10
năm qua cũng phải đề nghị là nên giới hạn chúng lại để có thể giúp các công ty
tư nhân cạnh tranh. Nhưng hai cố vấn cho lãnh đạo tiếp theo (Chủ tịch Tập Cận
Bình) là những người hiểu biết rất rõ về sự tranh dành giữa bè phái trong đảng,
đều cho rằng những công ty này chẳng có gì phải e ngại vì cả chính phủ trung
ương lẫn địa phương đều phải tùy thuộc tài chính vào lợi tức những công ty này
nên sẽ không muốn dẹp những công ty này đi.”
Như mọi người đã biết, giàn khoan 981 trị giá 1 tỷ đôla (đã
khai thác được khí đốt vào trung tuần tháng 9, 2014) thuộc về đại tập đoàn dầu
khí China National Offshore Oil Corporation (CNOOC).
Tình trạng tham nhũng, đặc biệt là trong quân đội: đây là một
đề tài nóng bỏng, đang được truyền thông quốc tế đề cập thường xuyên trên mạng.
Về đối ngoại
Ngoài tranh chấp ở Biển Đông, TQ còn có những tranh chấp
lãnh thổ quan trọng hơn nữa. Với một dân số gần 1 tỷ 380 triệu (2015), áp lực về
đất đai của Trung Quốc càng ngày càng nặng nề. Cho nên tranh chấp lãnh thổ với
láng giềng luôn xẩy ra.
Riêng với Nhật Bản hiện nay, Bộ trưởng Thường Vạn Toàn đã
nói thẳng với Bộ trưởng QP Mỹ Chuck Hagel về “ba không”:
“TQ sẽ không thỏa hiệp, không nhượng bộ, không thương thuyết”
về tranh chấp đối với Nhật Bản.
Về phía Nhật Bản, Thủ tướng Abe cũng đang leo thang: đặt vấn
đề an ninh không riêng cho vận chuyển hàng hải mà bao gồm cả những phi vụ trên
không trung.
Như ta đều đã thấy, một khi Nhật Bản thực sự tái võ trang
thì sẽ là đối thủ đáng ngại cho TQ.
Bắc Kinh không quên là Nhật đã từng chiến đấu với Nga ngay từ
đầu thế kỷ 20: ‘Nhật – Nga chiến kỷ', rồi trong Thế chiến 2 hải quân Nhật đã
thi hùng với Mỹ ở Thái Bình Dương, và không quân Nhật đã tấn công Trân Châu Cảng.
TQ lại còn mối thù hận muôn đời đối với Nhật Bản về việc xâm
chiếm lãnh thổ.
Kết luận
Xét về cán cân lực lượng, kinh nghiệm, và có thể là cả tinh
thần binh sĩ, chắc chắn là TQ không muốn hoặc chưa muốn trực diện với Mỹ tại
Thái Bình Dương.
Chiến lược TQ ngày nay là hăm dọa theo phương pháp du kích:
địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến’ và chiến thuật ‘cắt từng miếng xúc xích –
‘salami slicing,’ nhắm vào từng đối tượng, từng hòn đảo hay bãi cạn một lúc.
Theo như Báo Cáo mới đây của Viện Carnergie Endowment For
International Peace, thì ít nhất là trong tương lai có thể nhìn thấy được, “TQ
chưa muốn theo mô hình của Liên Xô để trở thành một đối thủ toàn cầu của Hoa Kỳ
nhưng chỉ muốn thành cường quốc ở Á Châu và tập trung vào việc tranh chấp lãnh
thổ với các nước láng giềng. Mặc dù vậy, đó cũng là sự thách đố lớn đối với Hoa
Kỳ vì Washington đã long trọng tuyên bố là sẽ tăng mạnh chi tiêu về sự hiện diện
quân sự tại Á Châu mặc dù các khoản khác trong ngân sách phải cắt giảm”.
Về lâu về dài thì như đề cập trên đây, TQ muốn thay thế Mỹ để
trở thành một nước siêu cường. Và như Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara đã kết
luận năm 1965: xa hơn nhưng quan trọng hơn, Trung Quốc đang sắp xếp, tổ chức để
tất cả Á Châu chống lại Hoa Kỳ.”
Cái nguy của sự tính lầm
Các nhà lãnh đạo thế hệ thứ năm của TQ ngày nay vì ít có
kinh nghiệm về những tính toán của các cường quốc trong thời chiến tranh lạnh,
cho nên dễ có thể tính lầm như Nhật Bản hay Liên Xô đã tính lầm, đó là một nhận
xét của một số quan sát viên quốc tế.
Nhật bị cho là đã tính toán sai khi bất ngờ tấn
công Mỹ trong trận Trân Châu Cảng, 7/12/1941
Trở lại trận Trân Châu Cảng: về chiến lược, có thể là Nhật
đã tính lầm về phản ứng của Hoa Kỳ và Anh Quốc vì thấy rằng sau khi Phát xít Đức
chiếm đóng Czechoslovakia (tháng 3, 1939) Mỹ không phản ứng gì cả, lại tuyên bố
là mình đứng trung lập, không dây dưa gì (ngày 5/9/1939).
Mười hai ngày sau, Phát xít Đức thôn tính thêm Ba Lan. Năm
1940 thì đến lượt Đan Mạch, Na Uy. Ngày 14/6/1940 Phát xít Đức tiến vào Paris.
Đến tháng 9 lại chớp nhoáng bắn phá cả Anh Quốc. Năm 1941 tràn qua Hy Lạp và
Nam Tư cũ (tháng 6, 1941). Bên Âu Châu thì đồng minh Anh Quốc cũng bết bát.
Sau khi quân Phát xít Đức bắt đầu gây hấn, vi phạm Hiệp Ước
Versailles (tháng 3, 1935), rồi chiếm vùng Rhineland, Thủ tướng Anh Neville
Chamberlain lại điều đình Hiệp Ước Munich để hòa hoãn, tuyên bố câu nổi tiếng
“hòa bình trong thời đại của chúng ta” – ‘peace in our time’ (tháng 9, 1938). Từ
đó tên ông Chamberlain dính liền với quan niệm ‘nhân nhượng, giảng hòa’ với đối
thủ.
Về điểm này thì các nhà lãnh đạo Mỹ thường hay hối tiếc là
chính vì Chamberlain có lập trường nhân nhượng, và vì Mỹ không hợp lực với đồng
minh ngay từ đầu nên đã để xẩy ra Thế Chiến 2.
Rõ ràng nhất là có lần Tổng thống Eisenhower đã viết cho Thủ
tướng Churchill:
”Nếu tôi có thể nhắc lại lịch sử, chúng ta đã không ngăn
chặn Hirohito, Mussolini, Hitler vì đã không cùng hành động chung với nhau, và
cho kịp thời, chính vì thế nên đã dẫn tới một thảm kịch bi đát và một sự nguy
hiểm tuyệt vọng trong mấy năm sau. Và như vậy, chúng ta đã học được điều gì
chưa trong kinh nghiệm này?” (thư 5/04/1954).
Năm 1962, Liên Xô đã tính lầm về việc mang tên lửa vào Cuba.
Tổng Bí Thư Krushchev cho rằng Tổng thống Kennedy sẽ không phản ứng mạnh vì còn
quá trẻ (42 tuổi), chưa có kinh nghiệm, lại nhút nhát, không dám can thiệp vào
Lào, rồi lại cho phép CIA vận dụng một nhóm người đổ bộ ở Vịnh Con Heo ở Cuba để
lật đổ Fidel Castro mà lại không tiếp tục khi chiến dịch bị phá vỡ.
“Ông ta đối xử với tôi như một cậu bé con, (like a little
boy),” Tổng thống Kennedy đi quanh phòng, lẩm bẩm, “Ừ, như là một cậu bé con!”
Ông đã bừng tỉnh: “Tôi biết tại sao ông ta lại coi tôi như vậy. Ông ta nghĩ rằng
vụ Vịnh Con Heo chứng tỏ là tôi thiếu kinh nghiệm. Có thể ông ta còn nghĩ là
tôi ngu nữa. Và có thể quan trọng nhất, ông ta nghĩ tôi không có gan.”
Vì vậy Kennedy quyết tâm phản ứng. Khủng hoảng tên lửa ở
Cuba suýt nữa leo thang thành Thế Chiến 3.
Năm 1995/96, có thể là Trung Quốc đã tính lầm khi quyết định
đe dọa Đài Loan vì nhận được Hong Kong trên căn bản ‘một nước Trung Quốc’ theo
như ‘Thông Cáo Thượng Hải’ (1972), cho nên khi thấy Tổng thống Lý Đăng Huy có lập
trường ‘Đài Loan độc lập’, TQ đã thử nghiệm tên lửa bắn vào hướng Đài Loan.
Hành động này dẫn đến việc Tổng thống Clinton phản ứng.
Trong chiến lược mới, Bắc Kinh cho rằng nếu chỉ làm những gì
mình có thể kiểm soát được, ví dụ như chỉ hành động gây hấn, tranh chấp ở hải đảo
thì không đưa tới mức xung đột quân sự.
Tại sao?
Vì TQ có thể quyết định mục tiêu nào trước, mục tiêu nào
sau, như bắt đầu từ bãi cạn Scarborough, tới quần đảo Senkaku, tới dàn khoan Hải
Dương 981, tới quân sự hóa một số hải đảo. TQ luôn có thể quyết định về mức độ
xung đột.
Nhưng theo như báo cáo mới đây của Viện Carnergie Endowment
For International Peace: “Nguy hiểm lớn nhất ở Á Đông ngày nay là một sự leo
thang bất ngờ về một sự tranh chấp có giới hạn nào đó, thí dụ như việc Trung Quốc
tranh chấp với Nhật Bản về hải đảo.”
Nguy hiểm hơn nữa là những đe dọa của TQ mới đây đối với Mỹ
trên không phận quốc tế: máy bay chiến đấu Trung Quốc đã bay sát, gây nên nguy
hiểm cho máy bay trinh thám Mỹ nhiều lần. Theo Washington thì máy bay Mỹ bay
trên không phận quốc tế, theo Bắc Kinh là trên không phận thuộc Trung Quốc. Nếu
như chỉ một máy bay Mỹ bị bắn rơi thì chắc chắn là Mỹ sẽ trả đũa. Sau đó không
ai tính được sự xung đột sẽ leo thang tới mức nào.
Nhìn vào lịch sử nhiều khi chỉ vì một biến cố hay sự kiện nhỏ
có thể gây nên thảm cảnh.
Thế Chiến I vào đầu Thế Kỷ 20 cũng đã xẩy ra chỉ vì một sự
kiện nhỏ: từ việc ám sát ông hoàng Franz Ferdinand của Đế quốc Áo - Hung năm
1914 ở Sarajevo đã châm ngòi thành đại chiến.
Trong tình huống ấy, dư luận thế giới lo ngại rằng Trung Quốc
có thể tính lầm về quyết tâm của Mỹ, và cả Mỹ cũng có thể tính lầm về dụng ý thực
sự của những hành động TQ. Như vậy hai bên có thể đi tới xung đột vũ trang, rồi
leo thang chiến tranh. Mà leo thang chiến tranh lần này thì Mỹ có thể kéo theo
cả Nhật, cả Úc.
Mặt khác, vì những giới hạn của TQ về kinh nghiệm hải chiến
và không chiến cộng với những khó khăn đối nội, đối ngoại như đề cập trên đây,
chưa kể những tranh chấp quyền hành nội bộ hiện nay đang gia tăng, có thể TQ
cũng sẽ quyết định trở về với lập trường ‘phát triển hài hòa’ của ông Đặng Tiểu
Bình.
Đây là điều mong đợi của cả thế giới. Vì chiến tranh là tàn
phá, là hủy diệt, cả thế giới sẽ bị ảnh hưởng, không ai có thể tưởng tượng ra
người thắng kẻ bại sẽ ra như thế nào. Mặt khác vẫn còn có sự lựa chọn cho hòa
bình. Như ở vùng Biển Đông, việc hợp tác để phát triển, xây dựng là sự chọn lựa
có thể nói là duy nhất cho tất cả các bên trong vùng.
Hy vọng rằng Đệ nhất Thế Chiến trong thế kỷ 21 - thế kỷ của
Á Châu - sẽ không xảy ra ở trên mặt biển cuả Hòa bình – “Thái Bình Dương.”
Riêng đối với Mỹ, ta có thể chắc chắn được rằng: Mỹ sẽ can
thiệp khi một trong bốn quyền lợi chính yếu (như phân tích trên đây) bị vi phạm.
Như Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ đã xác định ngay từ lúc vừa để ý
tới Biển Đông (tháng 4, 1950): “Vai trò lãnh đạo Thế giới Tự do của Hoa Kỳ đã đặt
trách nhiệm lớn lao cho nước này phải huy động được sức mạnh của thế giới tự do
để ngăn chận cộng sản bá chủ thế giới.”
Các văn bản về chính sách Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt
Nam thường nhắc tới điểm này. Từ nhận thức ấy, đi tới kết luận là: việc Cộng sản
thôn tính Vùng Biển Đông là điều đe dọa cho nền an ninh của Hoa Kỳ. Và đó là luận
cứ của cả cuộc hành trình ‘đồng minh nhảy vào’ Miền Nam Việt Nam.
Ngày nay, quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ ở Biển Đông lại còn
quan trọng hơn trong chiến tranh Việt Nam.
Đó là vì TQ đã trở thành một thế lực có khả năng uy hiếp cả
Á Châu cả lãnh thổ của Hoa Kỳ. Thực hư như thế nào thì chưa rõ, nhưng TQ cho biết:
đã bắt đầu nghiên cứu loại tầu ngầm siêu thanh (supersonic submarine) có thể
phóng từ Thượng Hải tới San Francisco trong 100 phút. Cho nên Mỹ đề cao cảnh
giác để phản ứng. Tuy nhiên về hình thức phản ứng thì có nhiều cách thức tùy
theo mức độ đe dọa của những hành động.
Từ những biện pháp kinh tế: nhắm vào một số người chung
quanh lãnh đạo TQ (giống như TT Obama đang làm đối với những nhân vật gần TT
Putin để trả đũa những hành động ở Ukraine), hoặc đóng băng (freeze) tài sản rất
lớn của TQ để ở các ngân hàng và định chế tài chính Mỹ (như trước khi TT Nixon
mở cửa Bắc Kinh), đến cấm vận, phong tỏa hải cảng, và sau cùng là biện pháp
quân sự. Biện pháp quân sự thì có thể bắt đầu bằng một vài xung đột trên biển,
trên không, tới trận chiến, rồi leo thang tới chiến tranh nguyên tử.
Tóm lại như Bộ trưởng QP Mỹ Leon Panetta đã tái khẳng định:
“Hoa Kỳ đã dính líu thật lâu và thật sâu đậm với Á Châu-Thái
Bình Dương dù trong chiến tranh hay trong hòa bình, dù lãnh đạo là Dân Chủ hay
Cộng Hòa, dù bất bình với nhau hay hài hòa với nhau, dù thặng dư ngân sách hay
phải đi vay nợ. Chúng tôi đã ở nơi đây, chúng tôi đang ở nơi đây ngay bây giờ,
và chúng tôi sẽ ở lại nơi đây trong tương lai.”
Vì nếu như vùng này bị áp đảo thì không những các quốc gia
nơi đây, mà chính an ninh quốc phòng của Hoa Kỳ cũng bị đe dọa, vì biên giới miền
Tây của Hoa Kỳ nằm ngay bên bờ Thái Bình Dương. Như cố TT Johnson đã khẳng định
về Đông Nam Á:
“Nếu chúng ta buông xuôi thì có nghĩa là chúng ta phải rút
tuyến phòng thủ của Hoa Kỳ về tận San Francisco.”
***
***
Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ
cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở
Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện
ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và The
Palace File, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.
Nguồn: www.bbc.com/vietnamese
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét