Tuấn Khanh
Trên tờ Forbes, bài viết mang tên Vietnam's Three Strategic
Options của nhà phân tích thời sự Anders Corr đã có một cái nhìn khá rõ ràng về
vấn đề biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt làm ảnh hưởng đến các quốc
gia chung quanh. Bài viết đáng đọc này, trích từ bài thuyết trình hội nghị
17-08-2016 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam. Các hội nghị, được tài trợ bởi Đại
học Phạm Văn Đồng và Đại Học Nha Trang, với chủ đề 'Tình trạng pháp lý của đảo
và đá Trong Luật Quốc Tế Và Thực hành Trong Biển Đông.
Các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đang ngày càng đầy
tính quân sự. Còn Việt Nam thì đang trở thành một quốc gia dễ xâm lấn từ Trung
Quốc, do cách chọn đứng một mình, thiếu các hiệp ước liên kết chặt chẽ để tạo đồng
minh. Trong tình hình an ninh đang xấu đi của Việt Nam, việc đối phó với Trung
Quốc có thể cần lựa chọn một trong ba
chiến lược sau: 1) tiếp tục các chiến lược hiện tại đi dây giữa các mối quan hệ
Mỹ, Trung Quốc và Nga; 2) Liên kết đồng minh với Mỹ nhằm chống lại Trung Quốc;
hoặc 3) phát triển khả năng quân sự của Việt Nam, bao gồm cả tiềm năng về vũ
khí hạt nhân.
Hành động của Trung Quốc lúc này, đang nhắm vào lãnh thổ của
Việt Nam, và từ cách đối phó của Việt Nam, kết quả của sự đối đầu qua lại này,
sẽ tạo ra một hiệu ứng toàn cầu. Nếu giả sử Trung Quốc đánh thắng Việt Nam, hậu
quả này sẽ khiến các nước khác lo ngại và nhượng bộ phần nào với Trung Quốc. Về
mặt quân sự thì Trung Quốc lúc đó cũng sẽ nổi bật hơn. Vì lẽ này, các quyết định
chiến lược của Việt Nam đối phó với Trung Quốc trong những năm tới, cần được
xem như mối quan tâm chính trị chung của thế giới.
Mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam, là âm mưu chiếm
lấy vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), vốn là quyền sở hữu mà Việt
Nam đã được Công ước Liên Hợp Quốc về Luật dự trữ Biển (UNCLOS) nhìn nhận.
Nhưng đến nay, Việt Nam chỉ có khả năng giải quyết các mối đe dọa này, bằng
cách điều đình và ngăn cản. Tương lai thì Việt nam chỉ còn có thể chọn lựa một
trong ba chiến lược đã nói trên.
Tất cả ba chiến lược này, cái nào cũng buộc phải chịu về chi
phí, kèm những theo rủi ro, và rất có thể sẽ gây ra những thay đổi cơ bản trong
chính trị và kinh tế của Việt Nam. Sự lựa chọn của Việt Nam sẽ gây ảnh hưởng đến
nhiều diễn biến trong nước và quốc tế, trong tương lai gần, bao gồm việc Trung
Quốc sẽ tăng cường sự hiện diện của nước này trên lãnh hải của Việt Nam, ảnh hưởng
sự ổn định của lãnh đạo hiện nay của Việt Nam, cũng như các ứng phó của Trung
Quốc đối với các nước khác.
Chiến lược hiện nay của Việt Nam, đi dây giữa các mối quan hệ
Mỹ, Trung Quốc và Nga, là phức tạp nhất, nhưng ít có khả năng dẫn đến các xung
đột ngoại giao, kinh tế, hoặc quân sự. Việt Nam là rất có khả năng đi theo lộ
trình này. Vì cách này bao gồm các yếu tố tương đối vô hại: luôn để mở các cuộc
đàm phán, nhận tài trợ phát triển và có được các hợp đồng mua bán với tất cả
các đồng minh tiềm năng, bao gồm Mỹ. và Trung Quốc. Việt Nam chỉ cần giữ mối hợp
tác quốc phòng với Mỹ và các đồng minh một cách vừa phải, có cơ hội mua và mua
thêm vũ khí mới như một cách răn đe.
Việc quá nghiêng về một phía của một trong ba chiến lược có
thể sẽ dẫn đến những hậu quả ngoài ý muốn. Cách tính quá kỹ của Việt Nam sẽ khiến
họ bị xa lánh bởi các đồng minh lớn, và làm mất khả năng thuyết phục Hà Nội có
thể là một đồng minh đáng để cam kết. Liên minh quá chặt với Mỹ. chống lại
Trung Quốc sẽ dẫn đến các biện pháp trả đũa của Trung Quốc và có lẽ thêm cả
Nga. Còn nếu nghĩ đến việc tạo một khả năng răn đe hạt nhân thì ắt sẽ gây ra nhiều
phản ứng ngoại giao tiêu cực, ít nhất là từ cả Mỹ.
Chính sách đi dây có thể làm giảm nguy cơ của một cuộc chiến,
nhưng khiến Việt Nam yếu đuối và dễ bị tổn thương khi ảnh hưởng từ Trung Quốc
gia tăng. Vì lẽ Trung Quốc muốn đẩy mạnh sức mạnh kinh tế và quân sự của nước
này ở châu Á, ảnh hưởng của nước này với Việt Nam cũng sẽ tăng lên. Và khi đó,
Việt Nam có thể lại phải nhượng bộ các mặt chính trị, ngoại giao và kinh tế với
Trung Quốc trong vòng hai thập kỷ tới.
Nếu Việt Nam lựa chọn chính sách đi dây như một chiến lược
chính, thì Hà Nội sẽ phải đối mặt với các đòi hỏi của Trung Quốc, nhượng Trung Quốc trong đường 9 đoạn. Từ đó sẽ cùng
cam kết phát triển chung và chia sẻ doanh thu tài nguyên, hydrocarbon và đánh bắt
cá, và thậm chí Bắc Kinh có thể hình thành
kín đáo việc đánh thuế thương mại hàng hải của Việt Nam. Nhưng chịu ảnh
hưởng Trung Quốc tại Việt Nam, và các kiểu nhượng bộ sẽ tạo ra sự bất mãn trong
dân chúng Việt Nam, thậm chí gây rủi ro ổn định chính trị và nhiệm kỳ của các
lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Chiến lược thứ hai là giả thuyết về việc đa số lãnh đạo của
Việt Nam muốn loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam, và dựng mối
quan hệ đồng minh chặt chẽ với Mỹ và các nước khác, bao gồm cả Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, Philippines, Úc và Ấn Độ. Một phần của chiến lược này, là Việt Nam có
thể kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế, thông qua UNCLOS. Chiến lược thứ
hai này sẽ giúp duy trì sự độc lập và chủ quyền của Việt Nam. Nhưng các đồng
minh mới được gần gũi của Việt Nam sẽ theo thời gian, cũng sẽ có ảnh hưởng của
mình đối với Việt Nam về vấn đề cải cách dân chủ hóa và tự do ngôn luận.
Việc cải cách dân chủ có thể dẫn đến các phong trào xã hội,
yêu cầu lãnh đạo hiện tại ra đi để ưu tiên cải cách hiến pháp, và cuối cùng là
một chính phủ dân chủ bầu. Những người chống lại chiến lược thứ hai này, thường
vẽ ra một viễn cảnh về hỗn loạn chính trị, nội chiến, cũng như làm ảnh hưởng mức
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, vốn được coi là rất ấn tượng.
Chiến lược thứ ba là phát triển khả năng quân sự của Việt
Nam đến mức Trung Quốc không muốn tấn công nữa. Hiện Việt Nam đã mua sáu tàu ngầm
kilo-class từ Nga trong vài năm qua. Có nhiều loại phi đạn tấn công trên đất liền
có thể với tới đảo Hải Nam, thậm chí là các thành phố sát biển như Thượng Hải.
Đây là sự đa dạng diesel-điện im lặng, và mang tên lửa hành trình đất tấn công
có khả năng đạt các căn cứ hải quân của Trung Quốc trên đảo Hải Nam, thành phố
ven biển lớn như Thượng Hải. Việt Nam lần lần có thể mua hoặc phát triển đầu đạn
hạt nhân cho các tên lửa này.
Chiến lược tăng cường quân sự có một điểm lợi cho Hà Nội, là
ít có khả năng gây ra sự thay đổi chế độ. Nhưng nó sẽ mất thời gian, kích động
một cuộc chạy đua vũ trang, vốn đã có ở châu Á. Và nếu là vũ khí hạt nhân, thì
chắc chắn sẽ kéo theo những chi phí rất lớn từ các cuộc phản ứng ngoại giao quốc
tế cũng như các đòn trừng phạt kinh tế.
Tuy nhiên, chiến lược này cũng có tính rủi ro cao. Việc xây
dựng hệ thống vũ khí hạt nhân của Việt Nam, có thể khiến Trung Quốc nảy sinh việc
muốn tấn công phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân của Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc
có thể sử dụng các chiến thuật đối với Việt Nam như đâm tàu chìm, khiêu khích một
cuộc chiến tranh, mà bình thường Trung Quốc cũng chưa tính tới.
Trung Quốc cũng có thể nhấn mạnh ưu thế riêng của mình trong
một cuộc chiến tranh toàn diện với Việt Nam, kích động xung đột quân sự cường độ
thấp để chứng tỏ quyết tâm của mình. Điều này có thể sẽ khiến Việt Nam phải nhượng
bộ, dù có vũ khí hạt nhân hay không. Chạy đua quân sự thì tốn kém và mệt sức về
chính trị, nhưng lại không mấy hiệu quả đối với một Trung Quốc đã sẵn sàng chấp
nhận rủi ro.
Thật vậy, Trung Quốc đã chứng minh một sự thèm khát mạnh mẽ
đối với rủi ro trong vài năm qua. Do lập trường ngày càng hung hăng của Trung
Quốc, Việt Nam khác hơn những nước khác là không may phải đối mặt với các lựa
chọn khó khăn. Các lựa chọn tốt nhất cho giới lãnh đạo và nhân dân Việt Nam,
theo ý kiến của tôi, là liên minh chặt chẽ với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Philippines, Úc và Ấn Độ, trong khi vẫn tăng cường khả năng quân sự của
mình.
Giới lãnh đạo của Việt Nam hiện nay đang trong tay một cơ hội
mang tính lịch sử. Nếu biết nắm bắt đúng lúc, nhân dân Việt Nam chắc chắn dành
sự trọng vọng trong bài khải hoàn ca, cho những người xứng là người hùng của tổ
quốc
(lược dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét