Những rủi ro đến từ sự
yếu đi của Trung Quốc và Nga
Robert D. Kaplan.
Trung tâm nghiên cứu An ninh Hoa Kỳ. Tác giả nhiều cuốn sách và bài báo nổi tiếng.
Khi mà Trung Quốc quả
quyết tự khẳng định chủ quyền trên các vùng biển lân cận và nước Nga tiến hành
cuộc chiến ở Syria, Ucraina thì người ta dễ nghĩ rằng hai siêu cường với lãnh
thổ rộng lớn bao phủ lục địa Á-Âu đang đưa ra những tín hiệu về sức mạnh mới được
củng cố của mình. Thế nhưng điều ngược lại mới đúng: Trung Quốc và Nga càng
ngày càng cố trương cơ bắp không phải vì họ mạnh mà chính vì đang yếu. Khác với
nước Đức Nazi phát xít, sức mạnh trong nước của nó vào những năm 1930 đã tiếp
nhiên liệu cho hành động xâm lược quân sự ở nước ngoài. Còn những thế lực xét lại
của ngày hôm nay thì đang trải qua hiện tượng ngược lại. Ở Trung Quốc và Nga
tình trạng bất ổn trong nước đang nuôi dưỡng tâm lý hiếu chiến. Điều này đánh dấu
một bước ngoặt lịch sử: lần đầu tiên kể từ khi bức tường Béc linh sụp đổ Hoa Kỳ
lại thấy mình đang cạnh tranh với các siêu cường.
Thực trạng kinh tế ở
cả Trung Quốc và Nga đều đang xấu đi một cách không cưỡng lại được. Kể từ khi
giá năng lượng sụt giảm vào năm 2014 nước Nga liền bị cuốn vào một cuộc suy
thoái nghiêm trọng. Trung Quốc trong khi đó đã bước vào giai đoạn đầu của thời
kỳ được hứa hẹn sẽ là một cuộc chuyển đổi dữ dội để chia tay với tốc độ tăng
trưởng GDP hai con số; sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán vào mùa hè năm 2015
và tháng Giêng 2016 chắc chắn chỉ là một sự nếm trải đôi chút trước khi bước
vào những cuộc đổ vỡ tài chính sắp diễn ra.
Khả năng xảy ra những
bất ổn kinh tế ngày càng gia tăng ở cả hai quốc gia nêu trên đã khiến cho vấn đề
ổn định chính trị nội bộ của chúng không còn là chuyện mặc nhiên nữa. Trong kỷ
nguyên của truyền thông xã hội và những cuộc thăm dò ý kiến không ngớt trên mạng
thì ngay cả những nhân vật chuyên quyền như Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và
Tổng thống Nga Vladimir Putin vẫn cảm thấy cần sự ủng hộ của quần chúng. Các vị
lãnh tụ đó chắc chắn có cảm giác bất an sâu sắc bởi lẽ đất nước của họ từ xa
xưa hầu như luôn bị bao vây bởi kẻ thù, những đội quân xâm lược lăm le vượt qua
các vùng bình nguyên rộng mở. Trên thực tế họ đang thấy khó khăn hơn trong nỗ lực
kiểm soát lãnh thổ bao la của mình khi có những phiến quân tiềm tàng hình thành
trên những vùng đất xa xôi
Thế giới đã chứng kiến
hình thức hỗn loạn, vô chính phủ khi mà các cuộc xung đột sắc tộc, chính trị,
giáo phái có thể gây ra trong các quốc gia với quy mô vừa và nhỏ. Thế nhưng triển
vọng gần như là hỗn loạn và vô chính phủ tại hai siêu cường đang vật lộn về những
vấn đề kinh tế lại là điều đáng lo ngại hơn nhiều. Khi tình hình ở trong nước xấu
đi Trung Quốc và Nga chắc chắn sẽ gia tăng xu hướng xuất khẩu các rắc rối của
mình với hy vọng rằng chủ nghĩa dân tộc sẽ đánh lạc hướng những công dân đang bất
bình và giúp tập hợp quần chúng. Hình thái hiếu chiến này đã tạo ra một vấn đề
đặc biệt khó khăn đối với các quốc gia phương Tây. Ở những nơi mà chiến tranh
xâm lược được dẫn dắt bởi sức mạnh trong nước thì cuộc chiến đi theo chiến lược
có phương pháp luận và được lên kế hoạch kỹ lưỡng cho nên các quốc gia khác có
thể giải thích và có đối sách phù hợp. Thế nhưng nếu cuộc chiến đó lại được
châm ngòi bởi khủng hoảng nội bộ thì hành vi của nó vừa táo bạo, mang tính phản
ứng, hấp tấp bốc đồng nên rất khó dự đoán và đối phó.
Trong khi các nhà hoạch
định chính sách Hoa Kỳ dự tính sự đáp trả thái độ thù địch ngày càng gia tăng của
Bắc kinh và Moscow thì nhiệm vụ đầu tiên của họ là tránh khiêu khích một cách
không cần thiết các siêu cường cực kỳ nhạy cảm và đang suy tàn bên trong. Có
nghĩa là họ không được đứng làm ngơ khi Trung Quốc và Nga vẽ lại đường biên giới
quốc tế và các hải phận. Câu trả lời sẽ là gì ? Washington cần đặt ra lằn ranh
đỏ một cách rõ ràng, liên lạc kín đáo và sẵn sàng hỗ trợ bằng sức manh quân sự
nếu cần thiết.
Mối hiểm nguy ở
Moscow
Một phần cũng vì các
vấn đề kinh tế của nước Nga nghiêm trọng hơn của Trung Quốc rất nhiều nên chính
sách gây hấn của Nga cũng trắng trợn hơn. Sau thời kỳ cầm quyền đầy hỗn loạn của
Tổng thống Yelsin chấm dứt vào năm 1999 Putin đã củng cố quyền lực trung ương.
Do giá năng lượng tăng vọt nên Putin đã có thể khai thác nền kinh tế giàu tài
nguyên dầu mỏ để hình thành vùng ảnh hưởng tại các quốc gia thuộc Liên xô cũ và
khối quân sự Vácsava. Mục tiêu của Putin rất rõ ràng: đó là phục hồi đế quốc
trước đây.
Nhưng bởi vì trực tiếp
cai trị thông qua các đảng cộng sản đã cho thấy cái giá phải trả là quá cao nên
Putin thiên về một loại hình thức gián tiếp của chủ nghĩa đế quốc. Thay vì gửi
quân đội tới những lãnh địa cũ trước đây, Putin cho xây dựng mạng lưới hoành tráng
các đường ống dẫn dầu, hỗ trợ các nhà chính trị ở các quốc gia láng giềng theo
nhiều cách, tiến hành các chiến dịch tình báo và sử dụng bên thứ ba để mua chuộc
và kiểm soát truyền thông địa phương. Chỉ mới gần đây Putin mới hành động không
úp mở trên một số mặt trận, chắc chắn cũng vì được khuyến khích bởi sự thiếu vắng
hành động đáp trả của phương Tây đối với chiến dịch quân sự của Nga tại Gruzia
năm 2008. Hồi đầu năm 2014 các lực lượng quân đội Nga chiếm Crimea và các lực
lượng dân quân vũ trang ủy nhiệm của Nga đã khởi phát cuộc chiến tranh vùng
phía Đông Ucraina. Cuối năm 2015 Putin đưa quân đội Nga tham gia cuộc nội chiến
ở Syria chủ yếu là để giải cứu chế độ của Basha al- Assad nhưng cũng vì một mục
tiêu rộng lớn hơn đó là phục hồi lại vị thế của Moscow ở Levant và tìm kiếm thế
đòn bẩy với khối EU bằng cách gây ảnh hưởng qua dòng người tỵ nạn đến châu Âu.
Năm 2014 giá dầu tụt
dốc, các nước Trung và Đông Âu tiếp tục cự tuyệt mua khí đốt Nga, mức tăng trưởng
toàn cầu thấp làm giảm nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu và các tài nguyên thiên
nhiên khác của Nga. Thêm vào đó là chính sách cấm vận gây nhiều thương tổn cho
Nga do phương Tây đưa ra. Kết quả là sự bùng nổ toàn diện của một cuộc khủng hoảng
kinh tế với việc đồng Rúp mất gần một nửa giá trị so với đồng Đôla kể từ năm
2014. Năm nay, GDP của Nga tăng trưởng gần 0 % và tính đến quý 3 năm 2015 nền
kinh tế bị co lại hơn 4%. Tám tháng đầu năm 2015 lượng đầu tư giảm 6% và khối
lượng xây dựng giảm 8%.
Không phải tình cờ mà
những cuộc phiêu lưu quân sự lại diễn ra cùng lúc với xu hướng đảo chiều rõ nét
của sức mạnh kinh tế Nga.
Các vấn đề kinh tế của
Nga đã lún sâu trong khủng hoảng khiến các nhà lãnh đạo có ít lựa chọn dễ dàng
để khắc phục. Đã nhiều thập kỷ Nga chỉ dựa vào xuất khẩu tài nguyên và ngành sản
xuất hàng tiêu dùng phục vụ thị trường nội địa (bởi vì có ít người nước ngoài
muốn mua các sản phẩm phục vụ dân sự của Nga). Trừ một vài loại tài sản có tính
khoe khoang thì khu vực dịch vụ của Nga vẫn còn ở tầm mức kém phát triển. Bởi lẽ
Putin và nhóm cố vấn chưa bao giờ quan tâm xây dựng các thể chế công dân và xã
hội dân sự hay kinh tế thị trường đích thực nên tham nhũng và nền kinh tế được
dẫn dắt bởi mafia ở nước Nga hôm nay cho thấy một sự tương đồng kỳ quái với nền
kinh tế Xô viết cũ.
Quay trở lại những
năm 1980 khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng Mikhail Gorbachov đã ứng phó bằng
cách cởi mở hệ thống chính trị và điều này bị trả giá bằng tình trạng hỗn loạn,
vô chính phủ và sụp đổ của đế chế Nga. Putin đã thấm thía bài học đó nên quả
quyết làm điều ngược lại: đóng chặt cửa hệ thống chính trị đồng thời hướng sự
quan tâm của công chúng vào những màn khoa trương sức mạnh Nga ở các vùng ngoại
biên lân cận. Putin là một cựu sĩ quan tình báo mà không phải là một quan chức
bàn giấy,do đó mặc dù vẫn ấp ủ nỗi ác cảm và hận thù liên quan tới vị thế của
nước Nga trên thế giới ông ta đã không tự lừa dối mình về những vấn đề nội bộ của
nước Nga. Khi mà nền kinh tế Nga tiếp tục sa sút, Putin hiểu rõ rằng để có được
sự ủng hộ trong nước thì chính sách đối ngoại của ông ta phải tỏ ra sáng tạo và
có tính toán hơn, thậm chí mang tính hòa giải một cách lừa dối tùy vào từng thời
điểm. Thời gian trước mắt sẽ hãy nhìn vào viễn cảnh ông ta phá hoại khối NATO
và EU ngay cả khi Nga cam kết giúp đỡ phương Tây chống nhà nước Hồi giáo ISIS.
Càng nhiều hỗn loạn ở nước ngoài mà Putin tạo ra thì sự ổn định trong nước rất
có giá trị đối với nhà nước chuyên chế lại càng có thêm cơ hội xuất hiện. Người
dân Nga có thể biết trên lý thuyết một cách trừu tượng rằng xã hội tự do thì vẫn
được ưa thích hơn nhưng họ lại sợ những rủi ro của một sự chuyển đổi.
Cố gắng tới mức có thể
được nhưng Putin không có khả năng che chắn cho chế độ của ông ta khỏi bụi
phóng xạ của sự sụp đổ kinh tế. Sự thất vọng sẽ nuôi cấy mầm mống của tình trạng
lục đục đấu đá nội bộ hàng ngũ lãnh đạo cấp cao trong việc chia chác nguồn bổng
lộc dồi dào.Sự thiếu vắng các thể chế đủ mạnh hiện nay cũng như bản chất tập
trung cao độ nhưng bấp bênh, dễ đổ vỡ của chế độ khiến một cuộc lật đổ cung
đình như đã xảy ra với Nikita Khrushov năm 1964 là không thể và nước Nga xét về
phương thức quản trị vẫn là một nhà nước Xô viết.
Đất nước này từng trải
qua quá trình tan vỡ của chế độ chuyên chế diễn ra tiếp theo sau tình trạng hỗn
loạn (trong và sau cuộc Cách mạng tháng 10), và có thể giờ đây khi sự rối loạn
lên cao đến mức nào đó sẽ đủ để chia tách nó lần nữa. Khu vực Bắc Cavcaz chịu ảnh
hưởng nặng của Hồi giáo, cùng với những vùng đất ở Siberi và Viễn Đông thuộc
Nga ở xa trung tâm lại từng chịu gánh nặng của các chính sách tàn bạo, đẫm máu
có thể sẽ nới lỏng mối quan hệ với Moscow khi tình trạng mất ổn định diễn ra
ngay chính bên trong điện Kremlin. Hậu quả có thể là một kịch bản kiểu Nam tư
cũ: bạo lực và chủ nghĩa ly khai bắt đầu từ một chỗ sau đó lan ra khắp nơi. Khi
mà Moscow mất kiểm soát thì phong trào Hồi giáo Jihadist sẽ tận dụng cơ hội để
lấp chỗ trống và sẽ tiến vào những vùng xa trung tâm của nước Nga và cả Trung Á
nữa.
Nghe đã thấy tồi tệ
nhưng sự việc có thể còn xấu hơn nữa. Trở lại với năm 1991 nhà trí thức Balan
Adam Michnik đã tiên đoán rằng các nhà lãnh đạo tương lai của Nga và Đông Âu sẽ
lấp đầy khoảng trống do sự sụp đổ của CNCS để lại bằng một thứ “ chủ nghĩa dân
tộc thô thiển và sơ khai”. Putin trong những năm gần đây đã theo đuổi thứ chủ
nghĩa đó và đã rất ranh mãnh, quỷ quyệt chống lưng cho phong trào đòi ly khai ở
Abkhzia, Donbas, Nagorno- Karabakh, Nam Ossetia và Transnistra để tạo ra những
cuộc xung đột dễ dàng phủ nhận. Kết quả là đã hình thành các “tiểu nhà nước’
(statelets) kiểu như sứ quân . Trong những năm tới Putin rất có thể sẽ kích động
một cách có lựa chọn các cuộc xung đột được gọi là “ xung đột đóng băng “
(frozen conflict) và lần này sẽ là các quốc gia vùng Baltic thành viên NATO (
những quốc gia này có đông người Nga sinh sống và vẫn được Moscow coi là những
tỉnh bị mất). Trong khi đó, Putin sẽ nỗ lực chơi con bài châu Âu cần Nga ủng hộ
ở Syria thì sẽ buộc phải công nhận việc sáp nhập Crimea và quyền kiểm soát của
ông ta ở Đông Ucrain như một sự đã rồi.
Tuy nhiên đúng lúc cần
phải có câu trả lời mạnh mẽ nhất thì dường như Châu Âu lại không thể làm như vậy.
Theo một góc độ nào đó thì cuộc khủng hoảng ở Nga cũng đang song hành với khủng
hoảng ở Châu Âu và cũng khiến châu lục này bị phân chia thành các khu vực trung
tâm và phụ cận.
Mặc dù đã có sự điều
chỉnh của Ngân hàng Trung ương châu Âu cùng các biện pháp khác, thời điểm tăng
trưởng thấp toàn cầu xảy ra cùng với sự bất lực của châu Âu tiến hành các cải
cách mang tính nền móng đã cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị của
Châu Âu sẽ còn kéo dài. Bằng việc làm cho các quốc gia hoảng sợ mà củng cố lại
đường biên giới, cuộc khủng hoảng người nhập cư và chủ nghĩa khủng bố cũng sẽ
làm cho sự chia rẽ EU thêm trầm trọng và không tránh khỏi là chính khối NATO.
Một sự không thống nhất
như vậy sẽ khiến cho nỗ lực ngăn chặn Nga của Châu Âu trở nên ngập ngừng và thiếu
tổ chức hơn những gì hôm nay đang được thực hiện. Khi mà NATO suy yếu đi các quốc
gia trước kia là thành viên của khối quân sự VACSAVA sẽ quay sang Hoa Kỳ vì sự
an toàn của mình. Các quốc gia đó cũng sẽ phân chia thành các nhóm nhỏ như đã
biết đó là: Balan, các nước Baltic và Scandinavia đang thành lập liên minh có
tính chất ngăn chặn sự xâm lược của Nga. Nhóm Visegrad bao gồm Cộng hòa Czech,
Hungary, Balan và Slovakia đang hình thành ngày một rõ nét hơn theo góc độ hiệp
thương chính trị và quân sự. Một sự chia rẽ nữa đó là đường ống dẫn khí đốt
Nord Stream 2 dự kiến đi xuyên qua biển Baltic từ Nga tới thẳng Tây Âu mà không
qua Trung và Đông Âu. Tại tất cả các quốc gia đó, tăng trưởng kinh tế chậm sẽ
thúc đẩy các phong trào dân tộc chủ nghĩa của cả cánh tả lẫn cánh hữu như là những
nạn nhân của các kỳ vọng kinh tế không được thỏa mãn.
Bắc kinh trên bờ vực
thẳm
Tốc độ tăng trưởng thấp
cũng khiến Bắc kinh tìm cách đẩy các mâu thuẫn phát sinh do những yếu kém nội bộ
ra bên ngoài. Từ giữa những năm 1990 Bắc kinh đã nỗ lực xây dựng quân đội trang
bị công nghệ cao, coi trọng phát triển các tàu ngầm, máy bay chiến đấu và tên lửa
đạn đạo hiện đại cùng các đơn vị chiến tranh tin học. Cũng giống như Hoa Kỳ đã
nỗ lực đẩy các cường quốc Châu Âu ra khỏi vùng biển Caribe vào thế kỷ XIX,
Trung Quốc hiện nay đang tìm cách đẩy Hoa Kỳ ra khỏi biển Hoa Đông và biển Nam
Trung Hoa (Biển Đông – ND). Láng giềng của Trung Quốc ngày càng trở nên lo ngại:
Nhật Bản coi sự bành trướng của hải quân Trung Quốc là mối đe dọa hiện hữu nên
đã quyết định từ bỏ chủ nghĩa hòa bình
(theo đuổi từ sau bại trận trong Đại chiến Thế giới II - ND) và nâng cấp
các lực lượng vũ trang. Malaysia, Philippines, Singapore và Việt nam đều tiến
hành hiện đại hóa quân đội của mình. Có điều gì đó đã khuấy động vùng biển từng
tương đối yên tĩnh và là nơi Hoa Kỳ chiếm thế thượng phong suốt thời Chiến
tranh Lạnh. Một môi trường hàng hải ổn định nơi từng chỉ có một thế lực kiểm
soát nay đã bắt đầu trở nên bất ổn và đa cực.
Cũng giống như Nga, sự
hung hăng của Trung Quốc ngày càng thể hiện não trạng của giới chóp bu quyền lực
khi mà nền kinh tế đã khựng lại sau mấy thập kỷ thăng tiến. GDP hàng năm đã giảm
từ 2 chữ số là con số thịnh hành trong suốt 10 năm đầu của thế kỷ này xuống con
số chính thức 6,9% trong quý III năm 2015, tất nhiên con số thực không nghi ngờ
sẽ phải thấp hơn. Tình trạng bong bóng bất động sản và thị trường chứng khoán
đã bắt đầu vỡ bung cùng vô số những mất cân đối khác trong nền kinh tế sử dụng
quá mức các đòn bẩy, đặc biệt là khu vực ngân hàng thiếu minh bạch.
Trong khi đó các căng
thẳng sắc tộc ngày một gia tăng tại quốc gia rộng lớn này. Ở một mức độ nhất định,
Trung Quốc – đất nước do người Hán chiếm đa số là một nhà tù đối với các sắc tộc
khác, trong đó có người Mông cổ, người Tibet và Uighu và tất cả họ đều chống đối
lại sự kiểm soát của trung ương với các cấp độ khác nhau. Hiện nay các chiến binh
Uighu là mối đe dọa ly khai trực tiếp nhất, một số đã được đào tạo ở Iraq,
Syria và vì họ có liên lạc với phong trào Jihardist toàn cầu nên mối nguy sẽ
ngày một gia tăng. Trong những năm gần đây đã bùng phát các vụ đánh bom có liên
quan tới chủ nghĩa ly khai Uighu ở tỉnh Quảng Tây – một điểm trung chuyển trên
con đường buôn lậu dẫn đến Việt nam chứng tỏ chủ nghĩa khủng bố sẽ không còn bị
giới hạn trong các vùng dân tộc thiểu số ở phía Tây Trung Quốc nữa. Bắc kinh đã
nỗ lực xoa dịu các phong trào đó bằng sự phát triển kinh tế, ví dụ như con đường
tơ lụa vành đai kinh tế của Trung Quốc đi qua Trung Á đang được đề xuất nhằm
làm xói mòn nền móng của chủ nghĩa ly khai Uighu nơi đây.Tuy nhiên nếu như dự
án khổng lồ này bị đuối sức do bản thân nền kinh tế Trung Quốc suy giảm thì chủ
nghĩa ly khai có thể sẽ bùng phát thành bạo lực mạnh hơn.
Còn hơn cả Putin, họ
Tập từng trải qua nhiều năm công tác đảng ở vùng nội Mông nên hẳn còn nuôi dưỡng
một số ảo tưởng về những vấn đề kinh tế trầm trọng của Trung Quốc. Tuy vậy điều
đó không có nghĩa là ông ta biết cách giải quyết chúng. Họ Tập đã đối phó lại
tình trạng kinh tế trở nên hỗn loạn bằng cách dựa vào chủ trương chống tham
nhũng. Quả thực chiến dịch này (đả hổ, diệt ruồi – ND) đã chủ yếu diễn ra như một
cuộc thanh trừng chính trị lớn giúp Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực về an ninh
quốc gia. Vì giờ đây các quyết định không còn do tập thể thông qua như trước
kia nữa nên họ Tập có toàn quyền hướng những bất ổn trong nước ra bên ngoài dưới
hình thức xâm lược. Trong 3 thập kỷ vừa qua lãnh đạo Trung Quốc đã tỏ ra tương
đối dễ đoán nhận, không thích mạo hiểm và mang tính tập thể. Thế nhưng hiện nay
tình hình chính trị nội bộ Trung Quốc đã trở nên rất không an lành như xưa.
Những tham vọng của
Trung Quốc còn vươn xa hơn tham vọng của Nga nhưng lại không khiến phương Tây
lo ngại bởi lẽ chúng được đưa ra một cách tao nhã, khéo léo.Trong khi Putin đưa
đội quân côn đồ đeo mặt nạ trượt tuyết đột kích và cướp bóc miền Đông Ucraina
thì sự xâm lược của họ Tập lại diễn ra với quy mô nhỏ hơn nhiều, tăng dần theo
từng bước một khiến Hoa Kỳ khó điên đầu khi đối phó để làm sao không bị coi là
phản ứng quá mức cần thiết. Họ Tập phái lực lượng hải giám cùng tàu thuyền
thương mại (chứ không phải toàn lực lượng hải quân) để quấy rối tàu chiến Philippines,
đưa dàn khoan vào vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt nam (nhưng chỉ
trong vài tuần lễ), thực hiện các dự án cải tạo mở rộng đảo chiếm đóng trái
phép và các bãi đá ngầm (tất cả đều không có người ở). Và kể từ khi các hành động
nguy hiểm đó diễn ra trên biển không thấy thấy chúng gây ra những nỗi gian khó
cho thường dân và trên thực tế đã không có thiệt hại về binh lính (thực tế
Trung Quốc đã gây ra nhiều thiệt hại về người và tài sản đối với ngư dân Việt
nam.Đó là những hành động của cướp biển và việc tác giả Robert Kaplan chưa thấy
hết tính nghiêm trọng của tình trạng này phải chăng cũng có phần trách nhiệm của
thông tin đối ngoại Việt nam thời gian qua đã bỏ ngỏ mặt trận vận động sự ủng hộ
quốc tế ? – ND).
Những động thái khác
của Trung Quốc thì ít khéo léo và tinh tế hơn. Ngoài việc gia tăng các yêu sách
về hàng hải, Trung Quốc đang xây cầu, đường sắt và đường ống dẫn dầu dẫn sâu
vào vùng Trung Á đồng thời hứa hẹn đầu tư hàng chục tỷ Đô la vào hành lang giao
thông kéo dài từ miền Tây Trung Quốc đi qua Pakistan để tới Ấn độ dương, nơi mà
Trung Quốc đã tham gia vào các dự án cảng biển từ Tanzania cho tới Myanma.
Nhưng một khi các khó khăn kinh tế ngày một trầm trọng thì sự tao nhã của hành
vi xâm lăng có thể bị lột bỏ và được thay thế bởi những hành động thô bạo và hấp
tấp, nóng nảy hơn. Họ Tập sẽ khó cưỡng lại sự cấp thiết phải sử dụng các tranh
chấp hàng hải ở Châu Á để tiếp thêm nhiên liệu cho chủ nghĩa dân tộc – sức mạnh
đem lại giải pháp gắn kết một xã hội đang bị đe dọa trở nên chia rẽ.
Nhiều khả năng nguy
cơ của khủng hoảng đang ngày một hiển hiện tại các quốc gia Trung Á: Kazkhstan,
Kyrgystan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Trạng thái ổn định kéo dài của
các quốc gia chuyên chế này đã giúp Trung Quốc dễ dàng kiểm soát những cộng đồng
thiểu số Trung Á của mình hơn. Tuy nhiên thời thế có thể đang thay đổi. Một vài
chế độ trong số đó kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc vẫn còn đang được dẫn dắt
bởi những Ban chấp hành Trung ương kiểu thời kỳ Brezhnev . Các lãnh tụ đó nay
đã già nua, câu hỏi về tính pháp lý của những chế độ đó đang được đặt ra trong
khi kinh tế của chúng vẫn bị cột chặt vào các cỗ máy đang giảm tốc là Trung Quốc
và Nga,dân số thì ngày càng bị Hồi giáo hóa. Vùng Trung Á, nói theo một cách
khác,có thể đang chín muồi cho một sự bùng nổ theo kiểu Mùa Xuân Ả Rập.
Cùng đối mặt với suy
thoái kinh tế và những đe dọa mang tính địa- chính trị, Trung Quốc và Nga có khả
năng tạo dựng mối quan hệ mang tính đồng minh chiến thuật dựa trên những tương
đồng giữa hai nhà nước chuyên chế, hướng tới quản lý vấn đề các vùng biên giới
để cùng chống lại phương Tây. Kết quả của quá trình này là vào tháng 11 năm
ngoái, hai bên cuối cùng đã giải quyết được cuộc tranh cãi từ lâu nay về biên
giới với việc Nga trả lại cho Trung Quốc một dải đất nhỏ vùng Viễn Đông mà
Trung Quốc vẫn nêu yêu sách. Tuy nhiên quá trình chuyển giao đã gây nên công phẫn
ở cả hai nước: người dân thường Nga phản đối sự nhu nhược của điện Kremlin còn
nhiều người Trung Quốc than phiền rằng họ đòi được ít đất quá. Ở đây một lần nữa
ý kiến đám đông có thể ép buộc các chế độ chuyên chế, trong trường hợp này nó
đã ngăn cản khả năng hai nhà nước chuyên chế hình thành một liên minh trục lợi.
Sự hỗn loạn sắp diễn
ra
Quyền lực tập trung –
ai có nó và ai thực thi nó là một vấn đề mang tính địa – chính trị thời nay. Chế
độ chuyên chế tập trung bao trùm một vùng rộng lớn vốn là một vấn đề cần phải
bàn và hơn nữa nó lại hiện diện trong một không gian mà ý thức về sắc tộc, tôn
giáo và cá nhân đang ngày một được nâng cao, đồng thời truyền thông điện tử có
thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thể hiện những nỗi bất bình, bức xúc mang
tính riêng biệt. Không có gì là ngạc nhiên khi khu vực lục địa Á-Âu đang trở
nên ngày một phức tạp hơn trước.
Các nhà hoạch định
chính sách ở Washington có lẽ tốt hơn hết là nên bắt đầu lên kế hoạch để đối
phó với những hỗn loạn tiềm tàng sắp diễn ra : đảo chính ở Kremlin, một bộ phận
của nước Nga sẽ tách ra, phong trào khủng bố Hồi giáo cực đoan ở Tây Trung Quốc,
cuộc đấu tranh phe phái quyền lực ở Bắc kinh và những lộn xộn về chính trị ở
Trung Á, mặc dù hiện nay thì chưa chắc nhưng tất cả đều trở nên ngày càng có thể.
Bất kể hình thái hỗn loạn nào xảy ra thì chắc chắn rằng Hoa Kỳ sẽ buộc phải vật
lộn khó khăn với các vấn đề mới phát sinh hoặc kiểu này hoặc kiểu kia. Ai sẽ quản
lý kho vũ khí hạt nhân của nước Nga nếu như ban lãnh đạo của quốc gia này chia
rẽ ? Hoa Kỳ sẽ bảo vệ nhân quyền ở Trung Quốc như thế nào khi chế độ này đàn áp
sự nổi dậy từ bên trong ?
Hoạch định chính sách để đối phó với những điều
bất ngờ như thế khác với lên kế hoạch cuộc chiến giải phóng Iraq. (Nếu như
Trung Quốc và Nga một khi nào đó có chính phủ dân chủ hơn thì người dân của họ
sẽ tự đóng góp vào sự thay đổi). Tuy vậy điều này không có nghĩa là khả năng xảy
ra hỗn loạn sẽ được giảm thiểu. Và để ngăn chặn cuộc khủng hoảng về an ninh hãi
hùng có khả năng xảy ra đó Washing ton sẽ cần phải đề ra một lằn ranh đỏ rõ
ràng. Bất kỳ khi nào cần thiết đều có thể liên lạc theo lằn ranh đó một cách
riêng tư mà không mang tính tranh dành quyền lực. Mặc dù những kẻ gây rắc rối ở
Quốc hội Hoa Kỳ dường như không thực thi điều này nhưng Hoa Kỳ sẽ chẳng được lợi
gì từ việc dùng những lời nhục mạ để chọc tức các chế độ đang lo sợ bị mất mặt ở
trong nước.
Trong trường hợp nước
Nga, Hoa Kỳ yêu cầu dừng khởi xướng các cuộc” xung đột đóng băng”. Khi mà Putin
có ý định phân tán sự chú ý của người dân Nga khỏi các vấn đề kinh tế khó khăn
thì ông ta sẽ thấy hấp dẫn hơn việc kích động tình trạng lộn xộn ở các nước
láng giềng. Lithuania và Mondova có thể đứng đầu danh sách các mục tiêu tiềm
năng được Putin ngắm đến do nạn tham nhũng và sự non yếu của các chính phủ dân
chủ nơi đây.(Mondova đã gần tới tình trạng hỗn loạn về chính trị, tham nhũng ở
Lithuania tuy vậy còn kém xa Moldova- ND). Cả hai quốc gia này đều có giá trị
chiến lược về địa- chính trị: Mondova có thể là cửa ngõ cho Nga tiếp cận vùng
Balkan còn Lithuania là cầu nối trên bộ dẫn đến thành phố Kaliningrad thuộc Nga
nhưng lại nằm tách biệt. Đối với Putin các cuộc xung đột đóng băng có lợi thế ở
chỗ đó là cuộc chiến không tuyên bố nên giảm thiểu khả năng đáp trả mạnh mẽ của
phương Tây. Chính vì vậy cần có hành động đáp trả phù hợp: nếu Putin đứng đằng
sau các biến cố ở Lithuania và Mondova thì phương Tây cần tăng cường các biện
pháp chế tài trừng phạt Nga và gia tăng nhịp độ của các cuộc tập trận ở Trung
và Đông Âu.
Cuối cùng, đó là NATO
phải nâng cao đáng kể tầm quan trọng của việc chia sẻ thông tin tình báo giữa
các quốc gia Đông Âu và sẵn sàng triển khai nhanh chóng hơn phi cơ, các lực lượng
mặt đất và các lực lượng đặc nhiệm tới vùng này. Hàng trăm binh lính Hoa Kỳ,
nhân viên hàng hải và lính thủy thay phiên nhau đóng quân tại các quốc gia ở
tuyến đầu của NATO trước đây từng tham gia khối quân sự VARSAVA tuy chỉ là một
sự hiện diện khiêm tốn nhưng chắc chắn sẽ ngăn chặn sự gây hấn của Nga. Có thể
chỉ cần đến vài tiểu đoàn hoặc một lữ đoàn. Nói rộng ra thì Hoa Kỳ sẽ cần phải
tạo ra những “ cái bẫy dây” quân sự có nhiệm vụ báo động nhằm ngăn chặn Nga triển
khai các cuộc tấn công qua biên giới nhưng lại không gây ra bất kỳ một khủng hoảng
nào. Và như vậy, cách mà Hoa Kỳ đối phó với năng lực chống tiếp cận ngày càng
gia tăng của Nga ở vùng Baltic đông dân cư cần phải tinh vi hơn là đối với
Trung Quốc ở vùng biển Nam Trung hoa có phần trống trải hơn.
Washington cũng cần đặt
ra lằn ranh đỏ đối với Trung Quốc. Ở vùng biển Nam Trung Hoa. Mỹ không cho phép
các dự án cải tạo đảo và bãi ngầm để tiến tới thiết lập vùng nhận dạng phòng
không ADIZ, nơi mà Trung Quốc tự cho mình quyền cấm các máy bay nước ngoài bay
qua như họ đã tuyên bố ở biển Hoa Đông năm 2013. Diễn biến này là một phần của
chiến lược nhập nhằng, mập mờ nhưng với chủ đích đã được tính toán kỹ: càng tạo
ra khoảng cách mù mờ, phức tạp về quân sự thì vị thế bá chủ của hải quân Hoa Kỳ
càng bị đe dọa. Nếu như Trung Quốc tuyên bố ADIZ trên vùng biển Nam Trung Hoa
(Biển Đông – ND) thì Washing ton phải đáp trả bằng cách đẩy mạnh các hoạt động
của hải quân ở các vùng phụ cận và tăng viện trợ quân sự cho đồng minh của mình
trong khu vực. Vừa qua tàu chiến của Hoa Kỳ đã thực hiện các hoạt động tự do dịch
chuyển còn yếu ớt trong vùng 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo mà Trung Quốc
tuyên bố chủ quyền. Nếu các hoạt động này không trở nên thường xuyên và dứt
khoát thì Trung Quốc sẽ không cảm thấy bị ngăn cản.
Thời điểm của sức mạnh
Chưa bao giờ câu cách
ngôn trước đây của Tổng thống Theodore Roosevelt mà ngày nay đã trở thành khuôn
mẫu “ Nói khẽ nhưng mang theo cây gậy to” lại có tính ứng dụng cao như hiện
nay. Cây gậy to có thể ngăn chặn được hành động gây hấn, xâm lược bất kể chúng
khởi phát từ sức mạnh hay sự suy yếu. Tuy vậy, tuyên bố nhẹ nhàng vẫn đặc biệt
phù hợp hơn khi mà sự gây hấn khởi phát từ tình trạng suy yếu, bởi lẽ những
ngôn từ gây ấn tượng chói tai sẽ kích động một cách không cần thiết các nhà lãnh
đạo đang bị dồn tới chân tường. Thực ra, điều quan trọng đối với Hoa Kỳ lúc này
là tăng cường sự hiện diện của lực lượng quân đội ở các quốc gia vùng Baltic và
biển Nam Trung Hoa (biển Đông – ND) hơn là công khai lên án Moscow và Bắc kinh
vì hành động của họ ở những nơi đó.
Cây gậy to có nghĩa
là nhanh chóng phục hồi ngân sách quốc phòng sau khi nó bị tiêu tán và kìm hãm.
Quân đội Hoa Kỳ có gần 570.000 quân lính vào năm 2010 và dự tính sẽ giảm còn
450.000 vào năm 2017. Hoa Kỳ đang đồn trú 33.000 quân mặt đất ở Châu Âu sau khi
giảm từ 200.000 thời Chiến tranh lạnh. So sánh với lực lượng tàu chiến và máy
bay thì các lực lượng bộ binh tạo nên hình ảnh đáng tin cậy hơn về quân đội Hoa
Kỳ bởi lẽ chúng đưa ra một thông điệp thể hiện ý chí quốc gia sẵn sàng đổ máu để
tôn trọng những điều đã cam kết. Vì hiện nay chiến tranh ngày càng trở nên
không quy ước cho nên Hoa Kỳ không cần thiết phải đồn trú một lực lượng lớn
quân mặt đất ở Châu Âu như thời kỳ Chiến tranh lạnh nhưng vẫn cần bố trí lực lượng
trên diện rộng. Nói về lực lượng hải quân, biển Baltic là quá chật chội để có
thể sử dụng tối ưu nhóm tàu sân bay tiêm kích cho nên Hoa Kỳ nên gửi tới đó nhiều
tàu ngầm hơn.
Washington phải làm
yên tâm các đồng minh của mình bằng cách hạn chế bớt những tuyên bố ồn ào về
các vấn đề đa quốc gia,toàn cầu, chẳng hạn như biến đổi khí hậu và nên chỉ dùng
chúng ở những nơi thật sự phù hợp. Tổng thống không bao giờ có thể mong đợi người
dân Israel, Balan hay Đài Loan chẳng hạn lại tin tưởng ông hơn chỉ vì ông đi đầu
trong vấn đề biến đổi khí hậu; người dân ở những nơi đó muốn Tổng thống nêu rõ
những các vấn đề địa- chính trị tiến thoái lưỡng nan, khó xử của họ. Mặc dù vấn
đề bệnh dịch, mực nước biển dâng hay những thách thức toàn cầu khác là hiện hữu
nhưng Hoa Kỳ có điều kiện xa hoa để quan tâm tới chúng chủ yếu là do vị trí địa
lý khá an toàn của mình. Nhiều đồng minh của Hoa Kỳ, nếu đem so sánh thì họ
đang phải sống trong sự nguy hiểm do ở quá gần Trung Quốc và Nga nên buộc phải
đối phó với các nguy cơ có quy mô hẹp và mang tính truyền thống hơn. Với hiện
trạng vị trí địa lý bi kịch và bất hạnh của mình, các quốc gia Châu Á mong muốn
thấy nhiều tàu chiến Hoa Kỳ hơn trong vùng biển của họ. Cũng như Trung và Đông
Âu
đều mong muốn một sự
cam kết (từ phía Hoa Kỳ - ND) mạnh mẽ và rõ ràng đối với nền quốc phòng của họ.
Chưa bao giờ như hiện nay, do quá trình toàn cầu hóa và cách mạng truyền thông
yếu tố địa lý ngày một trở nên liên thông và gắn kết. Uy tín quyền lực của Tổng
thống Hoa Kỳ sẽ chịu rủi ro tại một nơi này nếu ở nơi khác ông không thể đáp trả
lại hành động gây hấn, xâm lược một cách xứng đáng.
Năm 1959 nhà khoa học
chính trị Robert Strausz- Hupé đã định nghĩa “ cuộc xung đột kéo dài” như là trạng
thái kình địch trường kỳ có lợi cho bên nào tỏ ra vừa nhẫn nại lại vừa biết cách
“ trở nên thịnh vượng hơn nhờ xung đột như một điều kiện bình thường của thế kỷ
XX “. Hupé còn viết đại ý: “lối tư duy của phương Tây chỉ nhìn thấy công cụ của
hòa bình mà không thấy lợi thế biến lưỡi cày thành thanh gươm nếu nhìn từ khía
cạnh khác của sự vật “. Chính chủ nghĩa CS kiểu Trung Quốc và Liên Xô đã là đối
tượng phản ánh hiện thực của Straus- Hupé. Tuy nhiên, Hoa Kỳ rút cục cũng đã có
thể tự vệ trước những đối thủ của mình bằng chính sách kiềm chế theo kiểu cuộc
xung đột kéo dài.
Kiềm chế không chỉ là
cản trở, hạn chế như nhiều người vẫn nghĩ mà đó còn là chủ động có tính toán để
can dự vào các hoạt động gây hấn và nhất quán bảo vệ các đồng minh. Suốt thời kỳ
Chiến Tranh Lạnh các Tổng thống Hoa Kỳ đã hiểu rõ và thuyết phục rằng trong khi
muốn tránh một cuộc chiến tranh hạt nhân thì tình trạng đối đầu và xung đột (có
kiềm chế - ND) thay vì hòa bình là điều bình thường.
Ngày hôm nay, khi mà
Trung Quốc và Nga gia tăng các cuộc xung đột kéo dài thì các vị Tổng thống
trong tương lai của Hoa Kỳ cần phải nhận thức sự thật đó. Và họ cũng phải phối
hợp một tỷ lệ hợp lý giữa sức mạnh và sự cảnh giác, đề phòng bởi lẽ họ đã bỏ lại
xa mấy thập kỷ tương đối yên bình của thời kỳ Chiến Tranh Lạnh và Hậu Chiến
Tranh Lạnh để chuẩn bị bước vào giai đoạn hỗn loạn của lục địa Á- Âu đang tách
ra từng phần.
Thăng long- Hà nội
2/3/2016
Bản dịch của Phạm Gia
Minh
http://www.viet-studies.info/kinhte/FA_EurasiaAnarchy_trans.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét