Phóng viên Trần Quang Thành
Mặc dù cai quản đất nước bằng một chế độ độc tài toàn trị,
nhưng suốt 70 năm qua các bản hiến pháp được nhà nước cộng sản Việt Nam đưa ra
thực thi đều phải ghi nhận một số quyền của người dân, trong đó có quyền biểu
tình.
Để hội nhập quốc tế cũng như trước sức ép đấu tranh của các
tầng lớp nhân dân, Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng cũng đã phải hứa sớm đưa
ra Luật Biểu Tình trong nhiệm kỳ cuối của mình. Nhưng ông Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng lại thất hứa. Luật Biểu Tình đã không được thông qua trong kỳ họp cuối
cùng của Quốc hội khóa XIII sẽ diễn ra vào tháng 3 này. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng đã phải lên tiếng nhận xét đây là một việc làm thiếu nghiêm túc của
chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Trong khi đó Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, môt tổ chức xã hội
dân sự đã sớm đươc ra Dự Luật Biểu Tình và lấy ý kiến rộng rãi trên mạng xã hội.
Dự Luật Biểu Tình đó cũng đã được gửi đến các cơ quan có thẩm quyền như Quốc hội,
Chính phủ đã lâu nhưng không nhận được một lời hồi âm.
Nhân sự kiện chính phủ Nguyễn Tấn Dũng không hoàn tất soạn
thảo Dự Luật Biểu Tình trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, trong cuộc hội luận với
nhà báo Trần Quang Thành, nhà báo Phạm Chí Dũng, Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập
Việt Nam có nói: “Tôi thách bất kỳ ai chứng minh chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
thúc đẩy dân chủ”.
***
TQT: Nhà báo Phạm Chí Dũng và Hội Nhà báo độc lập Việt Nam
đã từng soạn thảo Luật Biểu tình và đã từng
công khai đưa lên lấy ý kiến dư luận. Ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã từng
ủng hộ phải có Luật Biểu tình và ông là người hăng hái nhất lúc đầu. Nhưng hiện
nay vào cuối nhiệm kỳ khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội không cho lùi thêm nữa thì
chính ông Nguyễn Tấn Dũng lại là người nói chưa soạn thảo xong, chưa chuẩn bị
xong nên ông dứt khoát không đưa trình Quốc hội trong kỳ họp cuối cùng của khóa
XIII. Tại sao lại như vậy nhà báo Phạm Chí Dũng?
Bài học xương tủy cho những người còn mơ màng về ông Nguyễn
Tấn Dũng
PCD: Tôi nghĩ có lẽ
đây là một bài học đắt giá, một bài học xương tủy cho những người còn mơ màng về
ông Nguyễn Tấn Dũng; cho một số trí thức ở trong nước và kể cả một số ít trí thức
ở hải ngoại, những người còn mơ hồ ông Nguyễn Tấn Dũng là người ủng hộ dân chủ,
là người “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” như Thông điệp năm 2014 của ông đã nêu, và
về việc ông là người “thoát Trung mạnh mẽ”.
Có một điều là chưa bao giờ ông Nguyễn Tấn Dũng thể hiện một
cách triệt để và có hiệu quả đối với việc ủng hộ Luật Biểu tình, mặc dù tháng
11/2011 ông Nguyễn Tấn Dũng là người lãnh đạo cao cấp đầu tiên ra trước Quốc hội
đề nghị cần có Luật Biểu tình. Chỉ có vài từ như vậy thôi mà báo chí ồn ào và
lúc đó uy tín của ông Nguyễn Tấn Dũng tăng vọt. Lúc đó người ta hy vọng ông
Nguyễn Tấn Dũng là một người đổi mới (lúc
đó chưa có cụm từ “cải cách thể chế” như hiện nay). Đơn thuần chỉ có từ “đổi mới”.
Từ sau năm 2011, năm nào ông Nguyễn Tấn Dũng cũng nhắc đến
Luật Biểu tình, nhưng có một điều là ông ta đã không làm gì để thúc đẩy tiến
trình soạn thảo Luật Biểu tình. Mặc dù năm 2011 Chính phủ đã chính thức giao
cho Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Biểu tình kết hợp với một số bộ,
ngành khác như Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc… Nhưng suốt gần 5
năm qua, dự thảo Luật Biểu tình vẫn giậm chân tại chỗ và năm nào cũng bị trì
hoãn. Riêng năm 2015 đã bị trì hoãn 2 lần vào tháng 3 và tháng 12 đều do tác
nhân là Bộ Công an trì hoãn đưa ra nhiều lý do trì hoãn, trong đó có lý do như là chưa thống nhất giữa các bộ,
ngành hay là “còn phức tạp lắm”. Đến tháng 2/2016 xuất thêm một tác nhân nữa trì hoãn Luật Biểu
tình đó là Bộ Tư pháp cũng với lý do là chưa có sự thống nhất giữa các bộ, các
ngành.
Cũng lúc đó xuất hiện thêm một tác nhân nữa là Bộ Quốc
phòng. Nếu không có sự tiết lộ của một cán bộ cấp cao của Quốc hội thì có lẽ
người ta không bao giờ biết được Bộ Quốc phòng có một quan điểm trì hoãn Luật
Biểu tình và do đó là phản ứng lại hoạt động biểu tình chống Trung Quốc.
Bộ Quốc phòng, trong văn bản trả lời Quốc hội đề nghị lùi Luật
Biểu tình, đã trả lời rằng Luật Biểu tình là một khái niệm có liên quan đến đổi
mới chính trị. Tôi để ý rất sâu đậm vào cụm từ đổi mới chính trị. Bởi vì từ trước
đến giờ đổi mới chính trị vẫn được coi là một vấn đề rất nhạy cảm, bằng cách
nào đó vẫn có thể bị suy diễn là đi chệch phương hướng chỉ đạo đường lối của Đảng
và Nhà nước. Cho nên nói “đổi mới chính
trị” thì rất dễ bị quy chụp là người hữu khuynh, là người rất dễ có quan điểm gần
gũi với các “thế lực thù địch”. Khi Bộ Quốc phòng đưa ra lý do đổi mới chính trị
như vậy, đồng thời đưa ra lý do chỉ có
thể bảo đảm an ninh, quốc phòng sau đó mới có Luật Biểu tình, có nghĩa là Bộ Quốc
phòng cố ý muốn trì hoãn Luật Biểu tình, trong đó có động thái biểu tình chống
Trung Quốc của người dân Việt Nam.
Như vậy có thể nhìn ra một chuỗi mắt xích, dây rợ liên quan
giữa các bộ ngành như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp kéo lên đến chính
phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng để có quan điểm thống nhất chưa thể ban hành Luật
Biểu tình. Hay nói cách khác, như một số
quan chức đã từng tuyên bố rằng Luật Biểu
tình ở Việt Nam chỉ có thể ban hành sau năm 2020 chứ không phải là hiện nay!
Như chúng ta đã biết, đây là một quyền dân đã bị kéo dài nhiều
năm lắm rồi. Trong Hiến pháp năm 1946 đã nói về Luật Biểu tình. Trong suốt hơn
70 năm cầm quyền của đảng Cộng sản đã luôn luôn nói về Luật Biểu tình nhưng
không bao giờ ban bố cái quyền dân cấp thiết đến như vậy. Nếu tính từ Hiến pháp
năm 1992 trở lại đây, có thể nói Luật Biểu tình đã bị trễ hẹn đến 1/4 thế kỷ.
Trong khi đó biểu tình thể hiện yêu cầu chính đáng của người
dân Việt Nam, một yêu cầu bức thiết của người dân Việt Nam bởi vì liên quan đến
nhiều thành phần. Nếu như cách đây vài chục năm số thành phần đó còn ít, đến
nay đã có đến hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân môi trường, và gần đây
nhất chúng ta thấy tiểu thương như ở chợ Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội. Đó là những
yêu cầu biểu hiện chính đáng của người dân. Dù chưa có Luật Biểu tình thì suốt
từ năm 2005 đến nay, đã hơn 10 năm qua biểu tình và đình công của công nhân, của
tiểu thương, của các nạn nhân môi trường, dân oan đất đai vẫn rầm rộ trên khắp các miền đất nước Việt Nam. Chính điều đó làm
cho nhà nước biết rằng rằng nhà nước phải giải quyết nhu cầu biểu tình.
Vậy tại sao chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng lại không đáp ứng
được điều đó?
Tôi cho rằng đây là một bước thụt lùi nghiêm trọng đối với
dân chủ nói chung và thụt lùi nói riêng đối với ông Nguyễn Tấn Dũng đối với cái
gọi là “uy tín cá nhân” của ông trong những ngày cuối cùng ông cầm quyền ở Việt
Nam. Đáng lẽ ra một người như Nguyễn Tấn Dũng đã phát ra một thông điệp trong
đó có cụm từ “nắm chắc ngọn cờ dân chủ”
(Thông điệp 2014) thì ông phải biết vận dụng điều đó, và nếu cho là mị
dân đi nữa thì ông cũng phải làm ít điều gì đó dân chủ, cho dân chủ trong đó có
Luật Biểu tình. Nhưng rất tiếc là ông đã không tận dụng hoặc không lợi dụng được
điều đó. Đó là một trong những nguyên do làm cho ông thất bại và phải rời khỏi
Bộ Chính trị Đại hội XII của đảng cầm
quyền tháng 1/2016. Cũng rất tiếc trong những ngày còn lại đó, có người nói
thay vì ông Nguyễn Tấn Dũng để lại một chút gì dân chủ cho người dân thì ông lại
đảo ngược xu thế đó. Và ông đã làm điều phi dân chủ. Như vậy ông đã không để lại
được cái gì trong lòng dân chúng nếu không muốn nói là ngược lại.
“Khát nước giữa sa mạc”: Hãy nhìn vào việc làm của ông Nguyễn
Tấn Dũng
TQT: Ông Nguyễn Tấn Dũng là người luôn nêu nhiều vấn đề mang
lại sự quan tâm của rất nhiều người, trong dư luận cũng như trong người dân.
Ông từng nêu lên phải kiện Trung Quốc; ông từng nêu lên phải cải cách thể chế ;
ông từng nêu lên phải tự do internet, tự do thông tin cho dân; ông từng nêu lên
vấn đề Luật Biểu tình. Nhưng tại sao những lời nói của ông lại không được thể
hiện bằng hành động cụ thể, thưa nhà báo Phạm Chí Dũng?
PCD: Chúng ta, người dân Việt Nam hãy nhìn vào hành động của
ông Nguyễn Tấn Dũng chứ không chỉ nghe lời nói của ông Nguyễn Tấn Dũng. Nói một
cách khác là hãy nhìn vào ông Nguyễn Tấn Dũng làm như thế nào, chứ không chỉ
nghe ông Nguyễn Tấn Dũng nói ba hoa.
Khi ông Nguyễn Tấn Dũng nói về vấn đề dân chủ, khi nói về Luật
Biểu tình, khi nói về cải cách thể chế, về tự do internet hay là “chúng ta
không thể ngăn cấm facebook đâu, không thể ngăn cấm các mạng xã hội đâu các đồng
chí ạ?!”, hãy nhìn vào bộ sậu của ông, các cơ quan của ông – họ đã làm cái gì để
thúc đẩy những điều đó? Không, họ không làm gì cả. Tôi thách bất kỳ ai ở Việt
Nam cũng như ở hải ngoại có thể chứng minh được một hành động dù chỉ nhỏ nhoi của
chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã làm để thúc đẩy dân chủ, nhân quyền trong suốt những
năm vừa qua.
TQT: Thế tại sao có
những người ca ngợi ông ấy là con người cải cách, con người cấp tiến?
PCD: Có hai thành phần:
– Một thành phần là những dư luận truyền thông mà chúng tôi
hiểu đó là những người ủng hộ của ông Nguyễn Tấn Dũng. Họ đã tập hợp lại thành
một nhóm và nhóm này lại biết sử dụng truyền thông một cách triệt để và hiệu quả
hơn hẳn nhóm của ông Nguyễn Phú Trọng và thậm chí hơn cả nhóm của ông Trương Tấn
Sang.
– Thành phần thứ hai, tôi nghĩ ở Việt Nam luôn luôn có. Đó
là những người nào đó, nói một cách mô phỏng là tâm lý “khát nước giữa sa mạc”.
Họ đa số là những người lớn tuổi. Tôi đã gặp những người lớn tuổi đó và họ nói
thành thật với tôi rằng họ già rồi, họ không còn bao nhiêu thời gian nữa và họ
quá sốt ruột trước hiện tình quá ngổn ngang của đất nước. Họ chỉ mong có một
bàn tay có bản lĩnh cầm trịch để có thể xoay chuyển được tình hình đất nước. Họ
quá mong đợi vào một Gooc-ba-chốp, thậm chí quá mong đợi vào một Putin của Việt
Nam. Vì thế họ quan niệm là trong những cái dở phải chọn cái nào ít dở hơn, và
họ nghĩ là Nguyễn Tấn Dũng là người ít dở hơn.
Họ nghĩ rằng Nguyễn Tấn Dũng là người tham nhũng nhưng ông
ta vẫn là người có thể đổi mới, có thể giải tán được đảng Cộng sản. Họ nói thẳng
với tôi rằng họ quá lớn tuổi, họ không còn bao nhiêu thời gian, thành thử họ buộc
phải lựa chọn. Và từ thái độ buộc phải lựa
chọn ấy, nếu không là ủng hộ thì cũng là nghiêng về một ai đó trong Nguyễn Phú
Trọng hoặc Nguyễn Tấn Dũng.
20160101_084538Có người nói với tôi đó là “tâm lý khát nước
giữa sa mạc”. Họ như những người đi lang thang giữa sa mạc khô hạn, nóng gắt
không có một giọt nước, để khi họ thấy một cái giếng thì họ rất mừng, mặc dù
không biết ở dưới giếng đó có nước hay không. Tôi cho rằng có thể thông cảm được
với tâm lý đó, nhưng chỉ thông cảm trong một chừng mực nào đó thôi. Vì nếu cảm
thông hoàn toàn với tâm lý đó thì có khi lại dẫn tới một sự sai lầm. Đó không
chỉ là một sự sai lầm theo nghĩa lựa chọn cá nhân mà nó là cả một sự sai lầm
trong vấn đề lựa chọn một thể chế, và là sai lầm cho cả một thế hệ, có thể dẫn
dân tộc Việt Nam đến một sai lầm khủng khiếp.
Lúc này, sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng không còn là Ủy viên Bộ
Chính trị và nhất là sau khi được biết ông là người chỉ đạo ngưng lùi Luật Biểu
tình thì đã có một số người trước đây ủng hộ ông đã nhìn nhận ông khác và thậm
chí khác hẳn. Họ không thấy Nguyễn Tấn Dũng như một cơ may cho dân chủ. Không
còn rơi rớt một cơ may nào dân chủ nữa. Họ đang phản ứng với ông và thậm chí phản
ứng rất mạnh mẽ.
Ông Nguyễn Sinh Hùng đang có một sự thay đổi thầm kín tự
thân?
TQT: Luật Biểu tình là một yêu cầu chính đáng của người dân;
biểu tình là một yêu cầu chính đáng của người dân. Trong suốt 70 năm qua hiến
pháp nào của nhà nước cộng sản cũng nêu lên điều đó. Nhưng tại sao họ lại sợ Luật
Biểu tình đến thế? Như ông Nguyễn Tấn Dũng một người được gọi là cấp tiến, là
dân chủ cũng lùi lại yêu cầu chính đáng đó của người dân, thưa nhà báo độc lập
Phạm Chí Dũng?
PCD: Đó là tâm lý cai trị độc trị ở Việt Nam. Cai trị một
cách độc đoán được gọi là độc trị hay toàn trị. Quản không được thì cấm. Quản
không được thì rất sợ. Họ chỉ có thể áp đặt một cách thành công thì họ mới bớt
sợ. Nhưng khi biểu tình của người dân đã dâng cao, đặc biệt dân oan đất đai,
thì họ rất sợ. Họ sợ Luật Biểu tình vô hình trung sẽ hợp thức hóa làn sóng biểu
tình của bà con dân oan đất đai. Cho nên họ cố kéo dài, cố gắng trì hoãn, thậm
chí vùi dập Luật Biểu tình không cho ra.
Tôi cho đó cũng là một lý do hoàn toàn dễ hiểu: họ yếu nên họ mới sợ.
TQT: Có một điều rõ ràng mà người dân thấy và ai cũng thấy.
Người ta nói là có 3 cơ quan : Lập pháp
– Hành pháp – Tư pháp. Nhưng mà là một cơ quan lập pháp Quốc hội, đại biểu Quốc
hội hình như chưa thảo ra một luật nào mà hoàn toàn ỷ lại vào chính phủ soạn thảo
luật rồi lại hướng dẫn thi hành luật. Tại sao lại có tình trạng như vậy thưa
nhà báo Phạm Chí Dũng?
PCD: “Cương lĩnh Đảng quan trọng hơn Hiến pháp” – như ông
Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo. Tình trạng từ trước đến nay gần như là đảng cầm
tay chỉ việc Quốc hội. Quốc hội chỉ là một cơ quan bù nhìn mà thôi, mặc dù về bản
chất Quốc hội là một cơ quan độc lập có quyền hạn giám sát, kể cả giám sát Đảng.
Tôi thấy có rất nhiều bằng chứng cho thấy Quốc hội đã không
làm tròn trách nhiệm của mình. Có nhiều lý do, nhưng nguyên nhân sâu xa là Quốc
hội chưa thể hiện nổi vai trò của một cơ quan độc lập. Cho nên thời gian sắp tới
Quốc hội muốn tỏ ra vì dân hơn, gần dân hơn thì tất nhiên cơ quan này phải có
những động thái thay đổi.
Có một điều tôi hơi ngạc nhiên là ông Nguyễn Sinh Hùng, trong một phiên họp của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội tháng Hai vừa qua, lần đầu tiên ông đã lên tiếng chỉ
trích thái độ thiếu nghiêm túc của chính phủ khi trì hoãn Luật Biểu tình. Trước
đây chưa thấy biểu thị thái độ của ông Nguyễn Sinh Hùng nghiêm túc và gay gắt đến
như thế. Tôi cho rằng cũng có tâm lý khi những người gần hết chức, hết quyền họ
có thể nói ra thôi. Nhưng đó chỉ là một lý do.
Tôi cho rằng có một khả năng ông Nguyễn Sinh Hùng đã có một sự
thay đổi tự thân – sự thay đổi rất thầm kín. Ông ta muốn để lại một dấu ấn nào
đó về giai đoạn cuối đời làm việc của ông ta đối với người dân Việt Nam. Tất
nhiên ông ta cũng muốn hậu sự của ông ta được mãn nguyện mà không bị bôi xấu.
Thành thử là gần như ông Nguyễn Sinh Hùng đã có một sự thay đổi trong vòng một
năm rưỡi vừa qua. Có thể nói, ông là một trong những quan chức cao cấp có những
lời ăn tiếng nói tương đối mạnh mẽ nhất. Tôi cho đó dù sao cũng là một dấu hiệu
thay đổi có hướng tích cực, mặc dù động
cơ của ông Nguyễn Sinh Hùng có thể chỉ là mị dân. Ở Việt Nam không có cái gì
thay đổi nhanh chóng.
Còn ông Nguyễn Tấn Dũng, từ một con người được coi là dân chủ
trong mắt một số người dân và trí thức, lại trở thành một người bảo thủ già cỗi,
tôi cho đó là một sự bế tắc. Không chỉ bế tắc về chính trị, về dân chủ mà cả bế
tắc về dân sinh và cuối cùng có lẽ là bế tắc toàn cục đối với ông Nguyễn Tấn
Dũng.
Quốc hội phải chứng tỏ được rằng họ tự đi bằng đôi chân của
mình
TQT: Trở lại Luật Biểu tình. Hội nhà báo độc lập Việt Nam nhẽ
ra phải đưa ra khuyến nghị một cái luật về tự do báo chí hay là Luật Báo chí mới,
nhưng đã tạm gác lại quyền lợi thiết thân nhất của tổ chức mình, của các nhà
báo để làm một việc vì dân, vì nước – đó là đưa ra Luật Biểu tình. Và Luật Biểu tình do Hội Nhà báo độc lập đưa
ra đã được sự đồng tình và ủng hộ của dư luận xã hội nhất là dư luận trên các mạng
xã hội. Ông đánh giá sao về Luật Biểu tình mà Hội Nhà báo độc lập đưa ra và hiện
nay thái độ của cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đối với luật này như thế
nào?
PCD: Cuối năm 2014, sau 5 tháng thành lập Hội Nhà báo độc lập,
chúng tôi có ngồi lại bàn với nhau. Một trong những cải cách thể chế ở Việt Nam
là cải cách làm luật. Một trong những liên quan đến cải cách làm luật là xã hội
dân sự, vấn đề nhân quyền, dân chủ ở Việt Nam và Luật Biểu tình. Tất nhiên có
thể bàn đến luật tương đối sát sườn, phù hợp với chuyên môn của Hội nhà báo độc lập là Luật Tự do báo
chí. Thế nhưng biểu tình là quyền gần gũi, sát sườn nhất ở Việt Nam, còn hơn cả
Luật Lập hội nữa.. Có một số luật chúng tôi đã bàn: Thứ nhất Luật Biểu tình ;
thứ hai Luật Lập hội ; thứ ba Luật Tự do báo chí ; thứ tư là Luật Tiếp cận
thông tin ; thứ năm là Luật Xã hội dân sự. Cuối cùng chúng tôi chọn Luật Biểu
tình là luật bức xúc nhất, sát sườn nhất
và có thể nói là nó tác động ngay đến đời sống của dân. Chúng tôi đã tiến
hành soạn thảo dự thảo 4 lần Luật Biểu tình đưa lên mạng xã hội góp ý kiến và
sau đó hoàn chỉnh Luật Biểu tình theo quan điểm của Hội Nhà báo độc lập Việt
Nam và đã gửi cho một số cơ quan liên quan như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an,
Bộ Tư pháp. Nhưng rất tiếc từ đầu năm 2015 đến nay không có bất kỳ sự hồi âm
nào. Nhưng Hội Nhà báo độc lập Việt Nam không lấy đó làm ngạc nhiên vì đó là
thói quen thường trực của các cơ quan nhà nước này.
Chúng tôi chỉ muốn nói là xã hội dân sự quan tâm đến vấn đề
này. Chúng tôi muốn đóng góp như một ý kiến tham khảo khi Quốc hội soạn thảo Luật
Biểu tình. Chúng tôi nhấn mạnh là Quốc hội soạn thảo Luật Biểu tình chứ không
phải là Bộ Công an soạn thảo Luật Biểu tình thì có thể tham khảo ý kiến của Hội
Nhà báo độc lập như là một tổ chức xã hội dân sự. Tất nhiên sự tham khảo ý kiến
đó là với quan điểm của người dân chứ không phải là áp đặt người dân.
Chúng tôi hy vọng với xu thế không thể thoái thác trách nhiệm
và xu thế của ngày càng dâng cao áp lực của đời sống, áp lực của nhân dân, có lẽ
năm 2016 vào một thời điểm mà Quốc hội sẽ cần phải chứng tỏ được rằng họ tự đi
bằng đôi chân của mình. Họ không phải là một mái đầu ngoan ngoãn nói gì nghe
đó, nói gì làm đó và họ cũng phải đáp ứng được một số tối thiểu quyền dân. Đó
là luật để cho người dân biểu thị thái độ
của mình trên đường phố. Lúc đó có thể bản văn dự thảo Luật Biểu tình của Hội
Nhà báo độc lập sẽ được Quốc hội “để mắt” tới. Chúng tôi cho rằng đó là một điều
đương nhiên. Đó là một việc Quốc hội phải lắng nghe.
TQT: Hy vọng mong muốn của Hội Nhà báo độc lập, của Chủ tịch
Hội Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng sẽ trở thành hiện thực khi Quốc hội khóa XIV
bước vào nhiệm kỳ của mình.
Mong Hội Nhà báo độc lập tiếp tục tiếng nói của mình góp phần
cho Luật Biểu tình sớm ra đời, làm cơ sở cho mọi người thực thi quyền của mình
như qui định trong Hiến pháp. Xin cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng.
PCD: Tôi cũng mong như vậy. Xin cảm ơn anh Trần Quang Thành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét