Sự phụ thuộc lẫn nhau là tình trạng của mối quan hệ giữa hai
bên mà trong đó thiệt hại của việc cắt đứt quan hệ hay giảm bớt các trao đổi là
tương đương nhau đối với mỗi bên. Còn theo Joseph Nye, sự phụ thuộc lẫn nhau đề
cập đến tình trạng mà trong đó các tác nhân hay sự kiện trong các bộ phận khác
nhau của hệ thống ảnh hưởng đến nhau.
Khái niệm “phụ thuộc lẫn nhau” bắt đầu được nghiên cứu từ đầu
những năm 1970 khi xuất hiện ba thay đổi quan trọng trong quan hệ quốc tế. Thứ
nhất, các quốc gia ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực vấn
đề, từ thương mại tới an ninh.
Thứ hai, năng lực của các nhà nước trong việc đưa ra các quyết
định liên quan đến nền kinh tế toàn cầu ngày càng suy yếu.
Và thứ ba, các quốc gia kết nối với nhau chặt chẽ hơn cũng
khiến cho họ dễ bị tổn thương hơn đối với các sự kiện hay biến cố ở những nơi
khác trên thế giới. Những nhận định này xuất phát từ sự gia tăng dòng chảy vốn
và công nghệ toàn cầu, sự tr
ỗi dậy của các công ty đa quốc gia, việc cải thiện quan hệ
giữa các siêu cường, tầm quan trọng ngày càng gia tăng của các thể chế quốc tế,
cũng như sự lu mờ dần của các đường biên giới quốc gia. Ngoài ra những vấn đề
toàn cầu như nhân quyền, nghèo đói, phát triển và môi trường cũng trở thành mối
bận tâm chung ngày càng lớn của các quốc gia. Chính vì vậy nhiều nhà phân tích
cho rằng đường lối chính trị quyền lực xơ cứng thời Chiến tranh Lạnh dường như
phải nhường bước trước những chính sách mang tính hợp tác giữa các quốc gia.
Sự phụ thuộc lẫn nhau liên quan đến ba khía cạnh quan trọng,
đó là sự nhạy cảm (sensitivity) trong ngắn hạn, khả năng dễ bị tổn thương
(vulnerability) trong dài hạn, và tính cân xứng của một mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau. Sự nhạy cảm hàm ý số lượng và tốc độ của những tác động do sự phụ thuộc
gây ra, có nghĩa là sự thay đổi trong một phần của hệ thống sẽ mang lại sự thay
đổi trong các phần còn lại của hệ thống nhanh chóng đến mức nào. Trong khi đó
khả năng dễ bị tổn thương liên quan đến chi phí tương đối của việc thay đổi cấu
trúc một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đó chính là chi phí của việc thoát khỏi hệ
thống đó hoặc thay đổi luật chơi. Một quốc gia ít dễ bị tổn thương hơn so với
quốc gia khác không nhất thiết có nghĩa là quốc gia đó ít nhạy cảm hơn, mà là
quốc gia đó sẽ phải chịu chi phí thấp hơn trong việc thay đổi tình hình. Ví dụ,
trong suốt cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nguồn năng lượng nhập khẩu chỉ chiếm
khoảng 16% trong tổng số năng lượng mà Mỹ sử dụng. Trong khi đó, năm 1973 Nhật
Bản phụ thuộc tới 95% vào năng lượng nhập khẩu. Mỹ vẫn nhạy cảm đối với cuộc cấm
vận dầu lửa của thế giới Ảrập do giá cả leo thang năm 1973, nhưng lại không bị
tổn thương nhiều như Nhật Bản.
Trong khi đó, tính cân xứng chỉ sự phụ thuộc tương đối cân bằng,
ngược với sự phụ thuộc không cân bằng. Trở nên ít bị phụ thuộc hơn có thể là một
nguồn của quyền lực. Nếu hai bên phụ thuộc lẫn nhau nhưng một bên ít phụ thuộc
hơn bên kia thì bên ít phụ thuộc hơn có quyền lực hơn miễn là cả hai đều coi trọng
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau đó. Điều khiển sự cân xứng của sự phụ thuộc lẫn
nhau cũng có thể trở thành nguồn của quyền lực trong chính trị quốc tế. Trong
chính trị quốc tế, sự cân xứng hoàn hảo, tức hai bên phụ thuộc ngang bằng nhau,
là hạn hữu. Trong khi đó, trường hợp bất cân xứng hoàn toàn – trong đó một bên
hoàn toàn bị phụ thuộc vào bên kia, lại rất phổ biến. Nói cách khác, tính bất
cân xứng là đặc điểm nổi bật của sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế.
Sự phụ thuộc lẫn nhau thường được phân tích trong mối quan hệ
với toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc kinh tế đã gia tăng nhanh chóng
khi các quốc gia theo đuổi các chính sách khá tự do về thương mại, đầu tư, và
di cư trong thế kỷ 19. Toàn cầu hóa đôi khi được định nghĩa là sự phụ thuộc diễn
ra ở cấp độ toàn cầu. Cuộc cách mạng thông tin càng làm cho mạng lưới phụ thuộc
lẫn nhau của toàn cầu hóa giữa các quốc gia ngày càng phức tạp thêm. Sự gia
tăng gần đây trong cuộc phản kháng chống lại toàn cầu hóa, một phần, là những
phản ứng trước những thay đổi do sự phụ thuộc kinh tế mang tới.
Về tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau, những người theo chủ
nghĩa tự do và chủ nghĩa hiện thực có những quan điểm trái ngược nhau.
Những nhà tự do cho rằng sự phụ thuộc kinh tế sẽ dẫn đến hòa
bình và thịnh vượng. Trao đổi thương mại gia tăng sẽ mang lại nhiều lợi nhuận,
khiến họ không muốn tiến hành chiến tranh và xâm chiếm lẫn nhau. Hay nói cách
khác, lợi ích của thương mại sẽ lớn hơn lợi ích mà các quốc gia thu được qua
chiến tranh và xâm chiến lãnh thổ. Chính vì vậy sự phụ thuộc lẫn nhau sẽ nuôi
dưỡng hòa bình.
Quan điểm thứ hai của những nhà tự do về sự phụ thuộc kinh tế
là sự phụ thuộc kinh tế giúp gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau. Như Bruce Russet
giải thích: “khi một người tham gia vào thương mại quốc tế họ có thể tiếp cận
nhiều thông tin và ý tưởng mà không thể có được từ các nguồn khác”. Do đó
thương mại và sự phụ thuộc lẫn nhau làm gia tăng hiểu biết lẫn nhau, giảm các
hiểu lầm – vốn là một trong những nguyên nhân của chiến tranh.
Quan điểm thứ ba của những nhà tự do gắn sự phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế với hòa bình thông qua cơ cấu trong nước. Lập luận này cho rằng
sự phụ thuộc lẫn nhau làm thay đổi những sắp xếp trong nước của một quốc gia,
làm gia tăng ảnh hưởng của những nhóm có lợi ích trong các mối quan hệ thương mại
hòa bình. Cụ thể là thương mại tự do chuyển cán cân quyền lực từ giai cấp cầm
quyền truyền thống – được cho là chú ý vào việc tìm kiếm vinh quang và những
hành động hiếu chiến, sang giai cấp thương mại – vốn quan tâm đến việc tạo ra của
cải hơn là tìm kiếm vinh quang quân sự. Quan điểm này có nguồn gốc từ Jean –
Baptiste Say (1767-1832), một nhà kinh tế học người Pháp. Say cho rằng thương mại
sẽ dẫn đến ảnh hưởng ngày càng gia tăng của giai cấp trung lưu vốn hướng đến việc
tạo ra của cải hơn là tiến hành chiến tranh.
Ngược lại những nhà hiện thực lại cho rằng sự phụ thuộc lẫn
nhau sẽ làm tăng khả năng tiến hành chiến tranh giữa các quốc gia vì nó khiến
các quốc gia trở nên dễ bị tổn thương hơn trong các mối quan hệ phụ thuộc. Các
quốc gia tồn tại trong hệ thống quốc tế vô chính phủ, với mối quan tâm hàng đầu
là an ninh, sẽ không thích sự phụ thuộc. Kenneth Waltz cho rằng khác với bối cảnh
của nền kinh tế – chính trị trong nước, trong chính trị quốc tế, khi một quốc
gia càng chuyên môn hóa thì nó càng phụ thuộc vào các quốc gia khác đối với các
sản phẩm mà nó không sản xuất được. Chính vì vậy, các quốc gia phụ thuộc nhiều
vào các nước khác thường hay lo lắng đảm bảo những gì mà họ phụ thuộc. Theo đó,
họ có xu hướng kiểm soát điều họ phụ thuộc vào hay giảm mức độ phụ thuộc của họ.
Và khi quốc gia phải đối mặt với tính dễ tổn thương trước chính sách của các quốc
gia khác do sự phụ thuộc mang lại, họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực để vượt
qua điều đó.
Mặc dù cuộc tranh luận giữa các quan điểm trái ngược nhau
này vẫn còn hiện hữu cho đến ngày nay nhưng với sự gia tăng toàn cầu hóa cũng
như sự vắng bóng các cuộc chiến tranh giữa các cường quốc kể từ sau Chiến tranh
thế giới lần thứ hai, có thể thấy rằng dường như quan điểm của chủ nghĩa tự do
đang thắng thế. Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng sẽ tiếp tục là một đặc
điểm quan trọng và một xu thế định hình tương lai của nền chính trị quốc tế
đương đại.
http://nghiencuuquocte.org/2016/03/05/phu-thuoc-lan-nhau-interdependence/#more-14148
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét