Auguste Comte đã từng tuyên bố
nhân khẩu học là vận mệnh của một quốc gia. Chính phủ Việt Nam chắc sẽ hy vọng
rằng triết gia Pháp sai và số phận có thể thay đổi, bởi vì nhân khẩu học của đất
nước này hiện không tốt.
Người ta thường nói rằng Việt Nam
có dân số trẻ, một gợi ý thường được các nhà kinh tế đưa ra như một dấu hiệu
cho thấy đầu tư tài chính vào nước này được đảm bảo. Tuy nhiên, đây không phải
là sự thật đúng (ít nhất là trong những thập kỷ tới).
Hiện nay, độ tuổi trung bình của Việt Nam là 32 và khoảng 55% dân số dưới 34 tuổi. Đối với nhóm tuổi 15-64, những người thường được coi là ở "tuổi lao động," tỷ lệ này tăng lên 68%, cao hơn đáng kể so với cuối thế kỷ trước, và cao hơn so với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á.
Hiện nay, độ tuổi trung bình của Việt Nam là 32 và khoảng 55% dân số dưới 34 tuổi. Đối với nhóm tuổi 15-64, những người thường được coi là ở "tuổi lao động," tỷ lệ này tăng lên 68%, cao hơn đáng kể so với cuối thế kỷ trước, và cao hơn so với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, số người trẻ tuổi, những
người dưới 15, đã bị suy giảm trong nhiều thập kỷ qua. Ngày nay, nó chiếm 23%
dân số, so với gần 40% vào năm 1989. Hơn nữa, tỷ lệ sinh đã bình ổn khoảng 1,95
lần sinh trên một phụ nữ so với 5 lần sinh của mỗi phụ nữ vào năm 1980 và 3,55 năm
1990 "Điều này có nghĩa là dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam sẽ
giảm trong những thập kỷ tiếp theo, và kết quả là điều này sẽ ảnh hưởng đến sự
tăng trưởng bình quân đầu người khoảng thời gian 2020-2050."
Dân số ở độ tuổi lao động của Việt
Nam đã lên đến đỉnh cao cách đây nhiều năm, khi thu nhập bình quân đầu người thấp.
Thu nhập bình quân đầu người đó chỉ bằng gần một nửa ở Trung Quốc, một phần ba ở
Thái Lan và gần 1/10 mức lương ở Nhật khi tuổi lao động của họ lên đến đỉnh điểm.
Nói một cách đơn giản, "Việt Nam có nguy cơ già đi trước khi nó trở nên
giàu có," theo lời của IMF.
Tổ chức Y tế Thế giới hiện coi Việt
Nam là một trong những quốc gia có số người già nhanh nhất trên thế giới. Hiện
tại, dân số già dưới 4% dân số cả nước, tương đương khoảng 10 triệu người trên
65 tuổi. Tuy nhiên đến năm 2030, con số này dự kiến sẽ tăng lên gần 7% dân số,
và hơn 10% vào năm 2050. Thêm vào đó, Việt Nam hiện có tuổi thọ cao thứ hai ở
Đông Nam Á (75 năm).
Vấn đề chính là liệu Đảng Cộng sản
cầm quyền có thể làm điều gì để giảm bớt những khó khăn trong tương lai đi kèm
với dân số già và một người làm công ăn lương, làm cho chi tiêu nhà nước cao
hơn cho chăm sóc sức khoẻ và lương hưu, thu nhập thuế thấp hơn và giảm tăng trưởng
kinh tế.
Bộ Y tế đã xây dựng một kế hoạch
hành động cho giai đoạn 2017-2025. Theo kế hoạch, tất cả người cao tuổi sẽ có
thẻ bảo hiểm y tế vào năm 2025. Chính phủ cũng đã gây ra một số điều tiếng khi
nói rằng không nên quá quan tâm về dân số già đi vì giới trẻ ở Việt Nam có ý thức
chăm sóc người cao tuổi, làm giảm trách nhiệm chăm sóc người cao tuổi của chính
quyền.
Tuy nhiên, như bây giờ đã được biết
đến ở Nhật Bản và Thái Lan, hai nước cũng có dân số già, cách truyền thống chăm
sóc cho người cao tuổi đang mờ dần. Chủ yếu là do đô thị hoá (hiện nay ở mức
2,59% ở Việt Nam) và những lối sống thời hiện đại, có nghĩa là người ta có xu
hướng sống với vợ chồng và con nhỏ chứ không phải bố mẹ hoặc ông bà. Vì vậy, cuối
cùng, nhà nước sẽ phải đối mặt với hầu hết các khó khăn.
Một số cải cách đã được đề xuất.
Việt Nam có thể nâng độ tuổi nghỉ hưu, hiện 60 tuổi đối với nam giới và 55 tuổi
đối với phụ nữ (5 năm đối với nam giới làm việc trong khu vực công). Đề xuất được
xem xét trong năm ngoái, và một lần nữa vào tháng 6, mặc dù vẫn chưa rõ ràng về
những thay đổi trong dự luật Lao động sẽ được thông qua.
Việc tăng độ tuổi nghỉ hưu sẽ kéo
dài độ tuổi lao động thêm vài năm nữa, làm giảm tình trạng hưu trí và gánh nặng
chăm sóc sức khoẻ trong thời gian đó. Nhưng nó chắc chắn sẽ được tiếp nhận một
cách giận dữ, như phản ứng ở nhiều nước trên thế giới. Khi cải cách hệ thống
lương hưu được thông báo vào năm 2015, điều này sẽ ngăn cản người nghỉ hưu có
thể thu được các khoản thanh toán bảo hiểm xã hội một lần khi họ nghỉ việc,
hàng ngàn công nhân đã đình công, buộc chính phủ phải làm dịu những thay đổi
này. Tổ chức Lao động Quốc tế tuyên bố, vào thời điểm đó, Việt Nam đang tiến tới
cuộc khủng hoảng lương hưu ngay từ năm 2021, khi quỹ an sinh xã hội của đất nước
này bắt đầu đi xuống. Và đến năm 2034, quỹ này có thể bị cạn kiệt hoàn toàn.
Chính phủ cũng có thể tăng thuế,
điều này đã bắt đầu. Tuy nhiên, sự tăng này tuy tương đối khiêm tốn cho đến
nay, nhưng dù sao cũng gây ra sự giận dữ của nhân dân. Khi tôi còn ở Hà Nội
cách đây vài tháng, người ta nói với tôi rằng họ ghét thuế tăng lên vì số tiền,
như một số người dân địa phương gọi là hối lộ, cũng đang gia tăng. Theo kế hoạch,
Bộ Tài chính tăng thuế xăng từ 3.000 đồng lên 8.000 đồng / lít. Đây được gọi là
"thuế môi trường" của nhà nước, điều mà nhiều người không tin: họ coi
nó như một cách để tăng ngân sách nhà nước chứ không phải để bảo vệ môi trường,
điều này có thể là đánh giá thực sự. Hơn nữa, giá xăng dầu đã cao hơn ở
Malaysia và Indonesia, và với mức thuế tăng thì giá một lít xăng sẽ bằng 1/6
thu nhập trung bình của người dân. Thật vậy, nhiều người cho rằng thuế tăng
nhanh hơn nhiều so với thu nhập.
Như chúng ta đã thấy, lập kế hoạch
cho một dân số cao tuổi trong tương lai đòi hỏi rất nhiều từ dân số hiện nay.
Trong bối cảnh này, Việt Nam, vẫn còn dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản cầm
quyền, đã phủ nhận nhiều quyền của công dân trong nhiều thập kỷ. Và bây giờ sự
bất mãn và phản đối chính phủ được cho là đang gia tăng, cùng với sự gia tăng
đàn áp.
Đồng thời, dự trữ nhà nước đang ở
tình trạng xấu. Nợ công hiện nay được cho là khoảng 64,7% GDP, có nghĩa là các
biện pháp thắt chặt là cần thiết. Trong khi đó, thâm hụt ngân sách của chính phủ
đã tăng từ 5% GDP trong năm 2000 lên 6,5% trong năm ngoái. Chính phủ có ý định
giảm xuống 3,5% vào năm 2020, một tham vọng dường như không chắc. Thật vậy, để
nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, một số chuyên gia cho biết Việt Nam cần phải
chi ít nhất 480 tỷ USD trong bốn năm tới đối với các dự án cơ sở hạ tầng, bao gồm
các sân bay mới, đường sắt và đường bộ.
Nhưng chính phủ đã không có khả
năng này, như thể hiện bởi sự chậm trễ liên tục ở nhiều dự án ở thành phố Hồ
Chí Minh, và không có khả năng đạt được mục tiêu nếu cắt giảm mạnh chi tiêu của
nhà nước. Đầu tư tư nhân có thể là con đường phía trước. Nhưng, tại thời điểm
này, điều này chỉ chiếm khoảng 10% tài chính của các dự án cơ sở hạ tầng. Và nếu
tỷ lệ phần trăm tăng lên thì chính phủ sẽ phải áp dụng những cải cách kinh tế
mà nó không muốn.
Như tôi đã lập luận lặp đi lặp lại,
tính hợp pháp của Đảng Cộng sản trong mắt công chúng phụ thuộc phần lớn vào khả
năng giữ cho nền kinh tế phát triển và mức sống được cải thiện. Những người
khác chấp nhận tình trạng hiện tại bởi vì, ít nhất trong quá khứ, đảng đã có thể
cung cấp các dịch vụ cơ bản như giáo dục và chăm sóc sức khoẻ. Nhưng ngay cả điều
này hiện đang bị đặt vào vấn đề. Sự gia tăng tham nhũng là một dấu hiệu tự
nhiên về nhu cầu lớn hơn mức sẵn có. Và theo báo cáo của Tổ chức Minh bạch Quốc
tế công bố năm nay, Việt Nam được cho là nước có tệ nạn tham nhũng lớn thứ hai ở
tiền đút lót cho trẻ em đến trường tốt hoặc hoặc cho bác sỹ trong bệnh viện.
Vì vậy, nếu Đảng Cộng sản không
còn có thể cung cấp các dịch vụ cơ bản cho hầu hết mọi người, cũng như không đảm
bảo nâng cao mức sống thì dường như có nhiều người sẽ bắt đầu hỏi mục tiêu của
đảng là gì. Quan trọng hơn, nếu không có các hình thức hợp pháp truyền thống của
nó, nhiều người sẽ bắt đầu đòi hỏi tiếng nói của mình về quyền lãnh đạo. Một
khi dân số già đi, chính phủ cần phải chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét