Thứ Năm, 5 tháng 10, 2017

Vấn đề cần thiết hiện nay là “nói hay thì phải làm giỏi”

“Tôi không cho rằng đây là nguy cơ, mà là thách thức mà thôi!”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhìn nhận như vậy trong bài phát biểu của ông tại phiên thảo luận toàn thể của Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, diễn ra tại Cần Thơ hồi cuối tháng 9-2017.


Mối nguy đến từ bộ máy hành chánh trì trệ

Câu chuyện đồng bằng sông Cửu Long cần phải biết thích ứng ra sao với biến đổi khí hậu, thực ra đã được đặt lên bàn nghị sự từ hơn hai mươi năm về trước. Khi đó, để khai thác sử dụng tài nguyên nước sông Mê kông một cách bền vững, các quốc gia trong lưu vực đã buộc phải tuân thủ Hiệp định Mê Kông năm 1995, đặc biệt là thực thi hiệu quả các chương trình sử dụng nguồn nước (WUP), chương trình quy hoạch phát triển lưu vực (BDP), chương trình môi trường (EP), chương trình quản lý và giảm nhẹ lũ (FMMP).

Chính phủ Việt Nam cũng đã sớm tham gia và phê chuẩn Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto. Chính phủ cũng nhanh chóng ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu theo Nghị quyết 60/2007/NQ-CP.

Đầu năm 2012, theo kịch bản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nếu nước biển dâng cao thêm 1m thì khoảng 70% diện tích đất ở đồng bằng sông Cửu Long bị xâm nhập mặn, mất khoảng hai triệu ha đất trồng lúa. Nhiều địa phương sẽ bị chìm trong nước. Theo đó, thời gian ngập úng ở đồng bằng sông Cửu Long có thể kéo dài bốn đến năm tháng, khiến 8,5 triệu người bị mất nhà ở. Không những thế, nhiều dự báo khoa học cho thấy, các hiểm họa thiên tai, dịch bệnh sẽ xảy ra ở mức độ nặng nề hơn, nếu không có giải pháp chủ động can thiệp, giảm nhẹ ngay từ bây giờ.

Cũng trong thời gian này, trong chuyến đi thị sát các tuyến đê biển vùng đồng bằng sông Cửu Long, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có phát biểu trên báo chí: “Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng giữ hệ sinh thái rừng ngập mặn bảo vệ tuyến đê biển. Việc bảo vệ chu đáo cho tuyến đê biển mà trong tương lai không xa, chúng sẽ giữ trọn vẹn vùng đồng bằng sông Cửu Long, cũng như đồng bằng sông Hồng không bị mất đất do biến đổi khí hậu và nước biển dâng”.

Ông Trương Tấn Sang nhìn nhận trong chiến lược phát triển năm tuyến giao thông quan trọng của Việt Nam, gồm tuyến đường cao tốc Bắc - Nam, tuyến quốc lộ 1A, tuyến đường tuần tra biên giới, tuyến đường ven biển và tuyến đê biển, thì tuyến đê biển có vai trò quan trọng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là trong điều kiện Việt Nam là một trong các nước chịu tác động mạnh của nước biển dâng.

Tuy nhiên từ đó đến nay trong chuyện biến đổi khí hậu, dường như chính phủ Việt Nam vẫn mới dừng lại ở những hành động ban hành các Nghị quyết, chỉ thị…

Ai chạy được tiền thì cứ tự làm

Khi xây dựng đề án “Quy hoạch tổng thể thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng”, phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã lên tiếng báo động việc triển khai các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu đang gặp nhiều khó khăn do ngân sách hạn chế, và một phần do tính chủ động, tích cực chưa cao.

Tại một số địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long mặc dù đã được đầu tư xây dựng khá đồng bộ hệ thống đê điều và kênh mương phục vụ sản xuất nông nghiệp, song tác dụng của một số công trình chưa cao, phát huy chưa hết công năng, thậm chí gây lãng phí. Nhiều khu vực sản xuất lúa và cây ăn trái của các tỉnh Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ, Tiền Giang... vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề mỗi khi xảy ra mưa lũ, đời sống của người dân còn bị phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên.

Đơn cử cho chuyện lãng phí vì manh mún là Dự án Ô Môn-Xà No (Cần Thơ) đắp đê bao bảo vệ 43.000 ha vườn cây ăn trái, vay 300 triệu USD của Ngân hàng Thế giới. Khi hoàn thành, lại gây ngập nặng trung tâm thành phố Cần Thơ và lân cận. Sau đó phải triển khai một dự án chống ngập khu trung tâm thành phố Cần Thơ, tiếp tục vay 250 triệu USD của Ngân hàng Thế giới.

Chống ngập lụt từng ô, từng địa phương kiểu “làm đâu biết đó” gây lãng phí rất lớn, số tiền làm đê bao đã gần 100.000 tỷ đồng. Quy định hiện hành, các dự án trên 30.000 tỷ đồng phải trình Quốc hội xem xét quyết định, còn ở đây, tiêu tốn số tiền khổng lồ nhưng vì làm hàng vạn ô thì Quốc hội lại chưa quan tâm.

Vỗ tay khen cho những đề xuất không mới

Năm 2015, đề án “Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự biến đổi tài nguyên nước đồng bằng sông Cửu Long” do PGS.TS. Trần Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài, cơ quan chủ trì là Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, đã khẳng định đang có đến “2 nguy cơ” chứ  không phải là chuyện chỉ có “thách thức” như lạc quan của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hôm cuối tháng 9-2017.

Đề án có đoạn viết: “Tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là nguy cơ thiếu hụt nguồn nước. Vấn đề thiếu hụt nguồn nước ngọt sẽ tác động hết sức tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Riêng đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, việc thiếu nguồn nước sẽ gây ra những khó khăn tổn thất lớn. Theo dự báo trong những năm tới, mực nước biển sẽ ngày một dâng cao, khả năng xâm nhập mặn sẽ rất lớn. Lưu lượng nước thượng nguồn về bị giảm sút sẽ không đủ lưu lượng đẩy mặn, nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa.

Thứ hai là nguy cơ ngập lụt. Dòng chảy trung bình mùa lũ tổng cộng vào đồng bằng sông Cửu Long có thể tăng tới 40 tỷ m3 nước. Ngập lụt sẽ gia tăng tại các vùng Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên, đặc biệt vùng kẹp giữa 2 sông Tiền và sông Hậu nghiêm trọng hơn.

Ngoài các thành phố, thị xã đã bị ngập lũ hiện nay như Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh, sẽ có thêm Sa Đéc, Vĩnh Long, Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vị Thanh, Sóc Trăng, Rạch Giá và Hà Tiên bị ngập trên 0,5 m; trong đó nghiêm trọng nhất là Châu Đốc, Cần Thơ và Vĩnh Long. Bán đảo Cà Mau tuy là vùng trũng thấp nhưng chỉ gần 50% diện tích ngập <0,5 m. Nước biển dâng làm cho tiêu thoát nước các thành phố Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau khó khăn hơn”.

Nhóm tác giả đề án bước đầu đưa ra đề xuất tương tự như nội dung ở Hội nghị diễn ra hai năm sau đó tại Cần Thơ dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc như đã nói ở trên: “Nguồn nước thiếu hụt trong thời kỳ khô hạn sẽ dẫn đến gia tăng khoảng cách xâm nhập mặn. Do vậy cần phải quy hoạch và từng bước xây dựng các tuyến đê biển dọc bờ biển Đông và biển Tây nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển trong điều kiện nước biển dâng cao. Nghiên cứu các biện pháp ngăn mặn xâm nhập sâu vào trong mùa cạn, trong đó có biện pháp xây dựng các cống ngăn mặn ở những nơi được chứng tỏ là có hiệu quả”. (Nói thêm, tuyến đê biển Gò Công hiện tại, thực ra được hình thành từ trước năm 1975 – PV)

Tuy nhiên, đề án do PGS.TS. Trần Hồng Thái làm chủ nhiệm đã dẫm chân tại chỗ bởi sự quan liên của thủ tục hành chánh. Đến cuối tháng 9-2017, những đề xuất được nêu ra gần như trùng lắp với các nội dung ở hai năm về trước, song lại được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hồ hỡi tin rằng “sẽ đưa ra một mô hình phát triển biến thách thức thành cơ hội, vì tương lai tốt đẹp hơn cho người dân khu vực đồng bằng sông Cửu Long”.

Vấn đề cần thiết hiện nay của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là “nói hay thì phải làm giỏi”, chứ không dừng ở chuyện chỉ “hô khẩu hiệu” suông là có thể giúp dân giàu, nước mạnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét