Lính Mỹ truy kích Việt Cộng tại Đà Nẵng, tháng Tư 1965.
Bộ phim Chiến tranh Việt Nam của
các đạo diễn Hoa Kỳ gây nên nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau của người Việt
trong và ngoài nước. Đó là điều tất yếu vì cuộc chiến
tranh kéo dài gần 30 năm, liên quan đến nhiều nước, với những động cơ khác
nhau, không thể làm thỏa mãn mọi người.
Đây là một dịp bổ ích và lý thú để
công luận có thể được dịp phát biểu thêm, soi tỏ thêm nhiều điều mới mẻ, những
góc tối của cuộc chiến, từ đó có thể bổ xung cho nhau nhiều hiểu biết mới để
soi tỏ thêm quá khứ, hiện tại và tương lai của các bên tham chiến trong mối
quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Một số nhà báo, làm phim truyền
hình người Việt, người Pháp, Hoa Kỳ, Đức… phỏng vấn tôi nhân dịp này. Tôi đã
phát biểu ý kiến của mình.
Với tư cách là một nhân chứng sống,
từng tham dự cuộc chiến từ ngày đầu đến ngày cuối, ở miền Bắc cũng như ở miền
Nam, ở chiến trường Cam-bốt cũng như ở Lào, tôi có nhiều suy nghĩ, kỷ niệm về
cuộc chiến tranh, nay có dịp để nói lên những điều quan trọng bị khỏa lấp mà bộ
phim hoành tráng của các nhà làm phim Hoa Kỳ không đề cập đến.
Nhiều bạn hỏi tôi, nếu tôi tham
gia một bộ phim khác về Chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ nói lên những điều gì? Tôi
có khá nhiều điều cần phát biểu về cuộc chiến, khi tưởng nhớ, ngẫm nghĩ lại về
cuộc chiến. Qua bài báo này trước hết, tôi muốn nói đến những oan hồn của cuộc
chiến.
Tôi có một số người thân, ông
chú, các anh chị em họ Bùi vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc dân
đảng đã bị Việt Minh chụp mũ cho là Việt gian, bị bắt giam sau Cách mạng tháng
Tám. Tiêu biểu là ông Bùi Nhữ Uyên chú ruột tôi từng theo cụ Nguyễn Thượng Hiền,
người cùng làng sang Nhật Bản vận động cho phong trào Đông Du và sau đó về
Trung Quốc, tham gia Việt Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu. Chú tôi bị bắt
năm 1946, bố tôi (Bùi Bằng Đoàn) lúc đó là trong Ban Thường trực Quốc hội can
thiệp với ông Hồ chí Minh, ông Hồ lệnh cho chính quyền tỉnh Hà Đông thả ngay
chú tôi, nhưng đúng vào đêm lệnh thả đến nhà giam ở Vân đình thì chú tôi mất vì
«đau bụng» khẩn cấp. Bạn tù cùng giam cho rằng chú tôi bị trại giam đầu độc.
Những oan hồn tôi không thể quên.
Việt Minh từ hồi đó coi tất cả các đảng yêu nước chống Pháp là Việt gian, như
Quốc Dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Cách mạng đồng minh,
đệ tứ (Trostkyt)… Họ phê phán rất mạnh cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, coi
là sai lầm thân Tàu, chuộng Pháp.
Tôi còn nhớ trước năm 1940 1941 số
đảng viên Quốc dân đảng rất đông, vượt con số đảng viên đảng CS Đông dương ở
các nhà giam, ở Côn Đảo. Rất nhiều giáo viên tiểu học các xã, huyện, trí thức
nông thôn tham gia phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Rất nhiều
trung nông, phú nông, cả địa chủ nhỏ có học tham gia đảng này, về sau bị Cải
cách ruộng đất kiểu Mao vu cáo là địa chủ ác bá, là việt gian, bị sát hại gần hết,
theo thống kê khi sửa sai con số oan hồn này lên đến hơn 15.000.
Ngoài số nói trên cần kể đến oan
hồn của các nhà yêu nước Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm – lãnh đạo nhóm Troskyt, tướng
Nguyễn Bình và nhà sử học Trần Huy Liệu - nguyên là đảng viên Quốc dân đảng, cụ
Đặng Văn Hướng – nguyên Bộ trưởng không bộ do ông Hồ phong chức và cụ Nguyễn Khắc
Niêm, thân sinh ông Nguyễn Khắc Viện, chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp –
2 cụ đều bị tàn sát trong Cải cách ruộng đất.
Cũng cần ghi thêm trong danh sách
các oan hồn những cán bộ cộng sản có ít nhiều thức tỉnh đã bị thải loại, ra
rìa, như tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng
Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Hoàng Minh Chính… trong vụ án «xét lại», Trần Dần, Hoàng
Cầm, Phùng Quán… trong vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ,
Nguyễn Cơ Thạch, Võ Nguyên Giáp… từng có tư duy độc lập chống lại một số chủ
trương chính sách của đảng.
Các đồng đội của tôi vào Nam chiến
đấu theo lời nguyện «sinh Bắc tử Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc»,
chết vài chục vạn, hơn 300.000 tử sĩ hiện chưa tìm ra thi hài mộ chí, cũng là
những oan hồn, nỗi đau lòng uất hận của hàng vài triệu bố mẹ, anh chị em ruột
thịt. Đó là những oan hồn vì khi chiến đấu, tự nguyện hy sinh, các đồng đội của
tôi đều mang theo hy vọng rồi gia đình mình, bố mẹ anh chị em mình, đồng bào
mình sẽ được hưởng độc lập tự do, an bình, phồn vinh hạnh phúc. Những hy vọng
thiêng liêng ấy đến nay vẫn còn xa vời. Ngược lại đất nước còn bị ách Bắc thuộc
từ sau mật đàm Thành Đô năm 1990, tự do tư tưởng, ngôn luận còn bị cấm đoán, trừng
phạt, an ninh của nhân dân, nông dân, trí thức, nhà kinh doanh tự do bị đe dọa,
các chiến sỹ yêu nước, đòi tự do cho nhân dân bị tù đầy, chênh lệch giàu nghèo
tồi tệ hơn thời phong kiến, thực dân, đảng cộng sản biến thành lực lượng kìm
hãm đà tiến bộ, phát triển của đất nước, mắc nợ hàng triệu oan hồn đã hy sinh
do những lời đường mật giả dối.
Tôi có nhiều anh em, cháu, - con
các bà chị ruột và chị họ vào Nam chiến đấu và hy sinh ở Đức Phổ, Quảng Ngãi,
Bình Định nay vẫn chưa tìm ra thi hài, mộ chí. Đã đến lúc phải nói thẳng ra là
gia đình và các cháu đã bị lừa. Họ đưa ra Luật nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền về
vinh quang trai thời loạn là sinh Bắc tử Nam, cưỡng bức các cháu bỏ học cầm
súng, bắt ký các bản tình nguyện nhập ngũ, buộc bố mẹ phải ký tên «vinh dự hiến
con cho Tổ quốc», trong khi con cháu các quan lớn hầu hết đều được xuất ngoại học
tập ở Liên Xô, Trung Quốc , Ba lan, Đông Đức, Tiệp… Một sự bất công khổng lồ. Bố
mẹ các cháu tôi lo nghĩ tiếc thương con, ban đêm xụt xùi khóc, nhưng vẫn phải tỏ
ra vui vẻ khi tiễn con vào Nam. Các cháu đều miễn cưỡng ký giấy «tình nguyện
vào Nam chiến đấu, đâu cần xin có mặt» theo ý nguyện (cưỡng bức) của Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cả một khoa học bịp bợm thành hệ thống.
Tôi đã từng nhiều lần vào Nam
cùng các đơn vị, vào Bình Trị Thiên, rồi vào Tây Nguyên – Kon Tum, Gia Lai, vào
Bình Định, Buôn Ma Thuột, Bình Long, Sài Gòn… có những điều ít ai biết, đó là
tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các
cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị
em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay
được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của
cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm
súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng
nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời. Hoặc có khi tử trận, nhưng giấy báo tử để
chậm vài năm là thường, vì chiến tranh khốc liệt, tử sỹ nhiều, đơn vị giải thể,
tiêu tùng hết, nhiều đơn vị sát nhập vào nhau, sổ sách mất, cháy, chỉ huy
thuyên chuyển liên miên, không có nền nếp chính quy, kiểu du kích, đại khái,
lem nhem.
Cho đến chuyện quản lý tù binh Mỹ
chặt chẽ, có sổ sách hàng ngày mà cuối cùng vẫn mất tích, không lý giải được,
lên đến hơn 100 người, đủ biết công việc quản lý của quân đội thời chiến luộm
thuộm ra sao.
Ở các nước văn minh, với quân đội
hiện đại, họ rất quan tâm đến việc thông tin, thư từ gia đình quân nhân được
chuyển nhanh nhất, chu đáo nhất đến tay chiến sĩ ngoài mặt trận. Đây là trách
nhiệm, đền đáp thiết thực có ý nghĩa nhất những hy sinh của gia đình và các
quân nhân. Ở Việt Nam, đảng Cộng sản cho việc cố tình bặt tin là biện pháp cưỡng
bức để các chiến sĩ không còn suy nghĩ thao thức mong chờ thư đi từ lại, một
lòng một dạ hy sinh chiến đấu cho những mục tiêu riêng của đảng. Đây là món rất
độc của chiến tranh tâm lý. Vì nếu tự do thư từ, thông tin, các chiến sĩ sẽ kể
về những trận đánh thiêu thân, cả đơn vị chết quá nửa như sau tết Mậu Thân thì
hậu phương sẽ bị chấn động, rất nguy hiểm để kêu gọi tiếp những đợt «sinh Bắc tử
Nam», mà phần lớn sẽ không trở về.
Ngoài hàng mấy chục vạn oan hồn
trên đây, tôi không thể không nhắc đến vài vạn người chưa chết nhưng bị những
oan khiên dằn vặt không kém các oan hồn kể trên. Họ rất đáng thương, nhưng xã hội
đã lãng quên họ.
Đó là chừng 20.000 cán bộ, chiến
sĩ Quân đội Nhân dân (theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quân lực Bộ Tổng tham
mưu) vào Nam bị chiêu hồi bởi Việt nam Cộng hòa, sau chiến tranh trở về gia
đình ở miền Bắc, đã bị hỏi tội, bỏ tù, cải tạo, trả thù, bôi xấu, hạ nhục, hành
hạ ra sao, bị gia đình xỉ vả, láng giềng khinh miệt, không sao ngẩng mặt lên được.
Theo tôi biết, rất đông anh em đó ở Hà Nội, Hà đông, Thái Bình, Nam Định, Hải
Phòng, Nghệ Tĩnh… Một số bảo mạng, cầu an, không chịu được gian khổ, căng thẳng,
nhưng không ít có ý nghĩ lành mạnh, không đang tâm bắn vào anh em trong một cuộc
huynh đệ tương tàn phi lý vô đạo nên đã chịu chiêu hồi, hy vọng khi chiến tranh
kết thúc, không ai nỡ trị tội mình. Đã có nhà văn nào nói lên thảm cảnh của số
anh em bị chiêu hồi rồi trở về quê quán này để tiếp tục bị oan khiên, kêu trời
không thấu này. Đã có tổ chức xã hội nào cúi xuống nâng đỡ các số phận đen đủi
này, tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi lý vô đạo do đảng Cộng
sản gây nên vì những mục tiêu và cuồng vọng riêng.
Nếu tôi tham gia dựng lên những bộ
phim về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi sẽ nói đến bản chất của chiến tranh,
qua những mặt tối, những góc tối bị che dấu, bị che lấp, nhưng oan hồn, những nỗi
oan trái chưa được biết, để có thể nói lên hết mặt trái của cuộc chiến tranh
không anh hùng, chẳng oanh liệt, một cuộc nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn
đáng hổ thẹn, đáng sám hối. Tít bộ phim có thể là «Những oan hồn - hay mặt trái
của chiến tranh», hay «Một cuộc chiến đầy dối trá», cũng có thể là «Cuộc chiến
của những người nô lệ», vì đảng Cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho học thuyết Mác
– Lênin, rồi qua đó bắt nhân dân, quân đội làm nô lệ cho những tham vọng riêng
của đảng, để cho đất nước lạc hậu, tàn lụi đổ nát, bất công như hiện nay.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu
trưởng Đại học Kinh tế Sài Gòn, một đảng viên cộng sản kỳ cựu rất có lý khi đề
nghị mỗi ngày kỷ niệm 30/4 là một cuộc Sám hối và xin lỗi của đảng Cộng sản đã
chủ động gây nên những tổn thất về sinh mạng, tài sản, thời gian của dân tộc đến
mức quá sức chịu đựng của nhân dân, để lịch sử có thể sang trang, đất nước có một
chế độ chính trị dân chủ, độc lập thật sự, lãnh thổ toàn vẹn, có nhân quyền,
phát triển phồn vinh cho toàn xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét