Hoàng đế Áo Franz Joseph.@wikimedia
Tròn 150 năm trước, ở vùng đất được
coi là trái tim của Châu Âu, đã ra đời một liên minh mới đáng nể, với 51 triệu
cư dân và 621 ngàn km2, lớn thứ hai Châu Âu, sau Nga về diện tích (hơn Pháp và
cả Đức thống nhất) và đứng thứ ba Châu Âu về dân số, chỉ sau Nga và Đức, vượt
trên cả Anh Quốc.
Liên minh ấy, với quân đội có
hàng triệu binh lính, có thể đối địch với bất cứ thế lực quân sự của cường quốc
nào khác ở Lục địa già. Điều đáng nói là liên minh tồn tại được tới hơn nửa thế
kỷ, cho dù chứa chở trong lòng 13 dân tộc với những ngôn ngữ, phong tục tập
quán và tín ngưỡng khác nhau.
Đó là Đế quốc Áo - Hung, nền quân
chủ kép được hình thành bởi Đế quốc Áo và Vương quốc Hungary, có lãnh thổ trải
dài và ôm trọn lưu vực sông Danube, con sông mẹ của Châu Âu. Không ít nhà
nghiên cứu cho rằng, đây chính là tiền thân đầu tiên của Liên Hiệp Châu Âu, đem
lại những năm tháng yên ả và hạnh phúc cho khu vực.
Nền quân chủ ấy gắn liền với tên
tuổi vị Hoàng đế của Đế chế Áo - Hung Franz Joseph Đệ nhất, người đăng quang
ngôi vị quân vương Hungary mùa hạ năm 1867, chấm dứt vài trăm năm thù địch giữa
hai quốc gia, nhất là từ khi cuộc cách mạng giành tự do của người Hung năm
1848-49 bị dìm trong biển máu.
Lễ đăng quang huy hoàng
Chưa bao giờ Cung điện Hoàng gia
Hungary trên đồi Buda lại náo nhiệt như thế, trong năm 1867 đáng nhớ. Trong những
cuộc hòa đàm từ đầu năm, Hoàng đế Áo Franz Joseph và Hoàng hậu Elisabeth, người
phụ nữ được coi là đẹp nhất Châu Âu nửa sau thế kỷ trước, đã nhiều lần có mặt tại
thủ đô Budapest.
Ngày 08/06/1867, cư dân Budapest
chờ đợi từ sáng sớm với hy vọng có cơ hội chứng kiến một sự kiện có thể là độc
nhất vô nhị trong đời họ, và cả trong lịch sử đất nước: lễ đăng quang của Hoàng
đế Franz Joseph, khép lại quá khứ khổ đau của dân tộc Hungary và “hợp thức hóa”
Hiệp nghị Áo - Hung đã ký trước đó.
Sử cũ ghi lại cảnh tượng cây Cầu
Xích cổ nhất - và tới lúc đó là duy nhất - bắc qua dòng Danube, biểu tượng của
hai thành phố bên bờ sông Buda và Pest đã được ngăn lại để chuẩn bị cho lễ đăng
quang được tôn nghiêm. Đám đông tụ tập đông nghịt mọi phố phường, mong ngóng một
buổi lễ trọng thể kéo dài.
Nghi thức chính diễn ra tại Nhà
thờ Mátyás trên Thành Cổ Buda, thánh đường nổi tiếng, là nơi tổ chức những buổi
lễ lớn truyền thống của Hoàng gia Hungary, như lễ đăng quang, cưới hỏi... Từ 6h
sáng, giới quý tộc và chính khách Hung đã có mặt tại đó, để chờ đón sự hiện diện
của vị Hoàng đế Áo vào hồi 7h.
Trong bộ đồ thống soái Hungary,
Franz Joseph tới địa điểm thiêng liêng ấy trên lưng ngựa, còn Hoàng hậu
Elisabeth thì trên chiếc xe ngựa của Nữ hoàng Maria Therese, vị mẫu hậu của cả
Châu Âu thế kỷ 18. Trong buổi thánh lễ trọng thể, bản nhạc được đại nhạc sư
Franz Liszt viết riêng cho dịp đăng quang được cử lên.
19 năm kể từ khi lên ngôi hoàng đế
nước Áo, Franz Joseph mới được choàng lên người tấm hoàng bào của các vị vua
Hungary, cùng thanh quyền trượng, và thiêng liêng nhất, ông được đội lên đầu
chiếc vương miện thần thánh của vị vua lập quốc Hungary, Thánh István, biểu tượng
của nhà nước Hung.
Khoảnh khắc bùng nổ nhất của buổi
lễ là lúc bá tước Andrássy Gyula, Thủ tướng Vương quốc Hungary cùng người đứng
đầu Giáo hội Công giáo Hung đương thời đặt chiếc vương miện lên đầu vị Hoàng đế
Áo đang quỳ dưới đất, rồi giơ tay hô vang chúc tụng cặp vợ chồng Quân vương
Hungary vừa đăng quang.
Sau đó, Franz Joseph cưỡi ngựa tới
chân cây Cầu Xích, tại đó, trên một gò cao được đắp bởi đất mang đến từ 72 tỉnh
thành thuộc Vương quốc Hungary, vị tân Quân vương đã làm nghi thức chém bốn
nhát kiếm, như một lời hứa sẽ bảo vệ đất nước Hung và tuân thủ Hiến pháp
Hungary, mà ông đã giữ trọn đời.
Buổi lễ đăng quang chính thức mở
ra nửa thế kỷ mà cả hai quốc gia đạt được mức độ thịnh trị về rất nhiều mặt,
khiến sách vở sau này đã gọi đó là những năm tháng hòa bình và hạnh phúc. Tròn
150 năm trôi qua, nền song quốc quân chủ Áo - Hung tới giờ vẫn để lại những
hoài niệm không mờ trong nhiều thế hệ.
Con đường dài và khúc khuỷu
Để có được nền hòa bình rất cần
thiết cho cả nước cai trị, Đế chế Áo, và nước bị trị, Vương quốc Hungary thời
đó, cả hai đều đã phải trải qua những chặng đường đầy cam go và có khi là đẫm
máu.
Mở đầu là việc triều đình Habsburg,
với sự hỗ trợ của gần 200 ngàn tinh binh của Nga hoàng, đã đè bẹp ước mơ của cả
một dân tộc sục sôi cho lý tưởng và mong mỏi độc lập: “Tổ quốc gọi người dân đứng
lên đi! - Thời thế bây giờ hay chẳng bao giờ nữa - Thành người tự do hay mãi
dân nô lệ? Các bạn ơi, hãy trả lời đi!”.
Thi hào Petofi Sándor, nhà cách mạng
đại diện cho khát vọng tự do của người Hungary trong cuộc cách mạng kéo dài gần
1 năm, khởi đầu ngày 15/3/1848, đã viết như thế trong thi phẩm nổi tiếng “Bài
ca Dân tộc”, bài ca về tự do và độc lập mà tới giờ người dân Hung vẫn luôn coi
là ý nguyện vĩnh cửu của họ.
Phù hợp với tâm cảm đó, nước Hung
bị chà đạp và dìm trong bể máu, bị mất những người con ưu tú nhất của mình
trong cuộc cách mạng, đã thực hiện một chính sách tẩy chay trên mọi lĩnh vực sự
hiện diện và hoạt động của bộ máy cai trị Áo. Hình thành một sự bất tuân dân sự
rộng rãi trong mọi giai tầng của dân Hung.
Thủ lĩnh của phong trào đó là
Deák Ferenc, một chính khách, nhân sĩ được cả nước Hung kính trọng vì tầm nhìn
xa và thâm trầm. Song song với sự tẩy chay, ông quan niệm rằng Hungary phải đủ
lớn mạnh để có được sự tự quyết với Đế quốc Áo, mà không cần phải thông qua những
cuộc chiến mạo hiểm và chết chóc.
Đối nghịch với quan điểm này là
Kossuth Lajos, một tượng đài khác trong phong trào đấu tranh đòi độc lập của
Hungary với tư tưởng chiến đấu đến cùng và bác bỏ suy nghĩ thỏa hiệp dưới mọi
hình thức. Câu hỏi “nên hòa hay nên chiến?” đã được tranh luận rất hay gắt
trong nền chính trị Hungary trong nhiều năm.
Những thất bại trong ngoại giao
và những cuộc chiến ngoài lãnh thổ Áo khiến Hoàng đế Franz Joseph nhận ra rằng
không thể tiếp tục trị nước trên cơ sở bạo lực. Đế chế Áo cần phải được cải tổ
để không tan thành từng mảnh trước sự căm thù và thù địch của những dân tộc bị
trị, trong đó nguy hiểm nhất vẫn là Hungary.
Phải nhượng bộ và thỏa hiệp để bảo
toàn, cuối cùng Franz Joseph cũng rút ra kết luận đó. Một bộ phận trong giới
quý tộc, chính khách tinh hoa Hungary cũng tán thành điều này. Liên minh Deák
Ferenc - Andrássy Gyula đã thắng thế, dù rất khó khăn, và bị phe đối lập coi là
đó là sự bội phản, sẽ dẫn tới cái chết của dân tộc Hung.
Hiệp nghị Áo - Hung, rốt cục, khiến
Hungary trở thành một quốc gia độc lập, có Quốc Hội riêng, và các bộ riêng, ngoại
trừ những bộ quan trọng nhất như Ngoại Giao, Chiến Tranh và Tài Chính là chung
với phía Áo. Nền hòa bình được thiết lập trên toàn lãnh thổ của nền quân chủ
này, trong vòng gần nửa thế kỷ.
Người phụ nữ định mệnh
“Đây là công trình của Deák,
Andrássy và cá nhân tôi”, Hoàng đế Franz Joseph đã viết như vậy, hoàn toàn bỏ
qua một tác nhân không kém phần quan trọng khiến Đế chế Áo - Hung còn được nhiều
người truyền tụng cho đến bây giờ: đó là vai trò của chính vợ ông, Hoàng hậu
Elisabeth, hay được biết đến với cái tên Sissi trong văn hóa đại chúng.
Nếu không có sự hiện diện của bà,
những sự kiện lịch sử cách đây 150 năm có thể chỉ đơn thuần là những dòng khô cứng
trong sách giáo khoa lịch sử. Người phụ nữ ấy, với những nỗ lực hiếm có, đã góp
phần mang lại nền hòa bình cho hai xứ sở Áo - Hung, bằng tình cảm hiếm có với đất
nước và con người Hungary.
Giới sử học đã tốn không ít giấy
mực để phân tích nguyên nhân của việc, tại sao Sissi lại yêu mến như thế
Hungary, để dày công học tiếng Hung, kết bạn thân thiết với nhiều người Hung,
tích cực “vận động hành lang” với chính giới Áo, Hung và với cả chính chồng
mình, Hoàng đế Franz Joseph, để có được Hiệp nghị 1867.
Một điều không thể phủ nhận: sử
sách còn lưu lại những lá thư tay bà viết bằng tiếng Hung, gọi Hungary như mảnh
đất quê hương mà bà cảm thấy khi tới đó như được trở về nhà. Những hành động
mang tính hòa hợp, hòa giải của bà với người Hung đương thời, vốn căm thù đế quốc
Áo, cũng được ghi nhận lại rất rõ ràng.
Là một phụ nữ rất hiện đại - và
do đó có cách hành xử đi ngược lại rất nhiều chuẩn mực của giới quý tộc đương
thời -, trong đời Sissi rất mê lãng du, bà di chuyển không ngừng và không mấy
khi quan tâm cùng chồng trong công việc trị quốc. Ngoại lệ, chỉ là những năm
tháng bà lao tâm khổ tứ cho nền hòa bình của hai nước Áo - Hung.
Một lý do được truyền khẩu ngay từ
thời đó - và tới giờ vẫn không ai chính thức bác bỏ được - cho nỗ lực chính trị
của Sissi, là vì bà đã thầm yêu, hoặc ít nhất cũng có thiện cảm rất đặc biệt với
vị Thủ tướng Hungary, sau này là Ngoại trưởng của cả Đế chế Áo - Hung, bá tước
Andrássy Gyula, người hơn bà tới 14 tuổi.
“Người bạn tốt duy nhất của tôi cho
tới giờ, và mãi mãi”, đó là những lời mà Hoàng hậu Elisabeth thốt lên khi biết
tin Andrássy qua đời. Ở người đàn ông văn võ song toàn, điển hình đẹp nhất của
mẫu chính khách Vương quốc Hungary này, Sissi đã tìm được một người anh, người
bạn không bao giờ khiến bà thất vọng.
Tình cảm của họ đi đến đâu trong
thực tế, hậu thế không biết, và có thể sẽ không bao giờ biết. Một điều chắc chắn:
sự thể hiện trong bộ phim “Sissi” do nữ tài tử Romy Schneider thủ vai cách đây
tròn 60 năm, đã khiến tên tuổi Elisabeth và mối tình của bà với Andrássy đi vào
tâm thức nhiều thế hệ người yêu điện ảnh.
Cuộc đời hoàng hậu Sissi có quá
nhiều bất hạnh, kể từ cái chết tức tưởi của đứa con trai duy nhất, Hoàng thái tử
Rudolph, tới sự ra đi của chính bà bởi một tên khủng bố vô chính phủ vào cuối
hè 1898. Nhưng Elisabeth đã trở thành một phần của Nền quân chủ Áo - Hung, và
cũng như chồng bà, hoàng hậu Sissi đã khiến lịch sử trở nên gần gũi với hậu thế...
Tan rã sau Thế chiến thứ nhất, nền
song quốc quân chủ Áo - Hung tới giờ vẫn còn để lại vô vàn dư âm ở hai thủ đô
Vienna và Budapest, cũng như tại tất cả những mảnh đất mà nó ôm trọn trong
lòng. Rất nhiều điều đã được tô đẹp trong ký thức hậu thế, như vũ điệu valse
thành Vienna huyền thoại.
Riêng Hungary, xứ sở bị mất hai
phần ba diện tích đất nước và hai phần ba dân số sau sự cáo chung của Đế chế Áo
- Hung, giờ đây có thể hoài niệm về một thời cực thịnh mà thủ đô Budapest phát
triển chỉ sau Berlin ở Châu Âu, với nền văn hóa, giáo dục ở đỉnh cao, đặt nền
móng cho 15 giải Nobel về sau này...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét